Trang

Thứ Năm, 31 tháng 7, 2014

TPP - Bước phát triển của tự do hóa thương mại

(Tài chính) Điều quan trọng nhất trong đàm phán các Hiệp định thương mại tự do là đàm phán thuế nhập khẩu mà Việt Nam đã tham gia. Tuy nhiên, đối với Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) lại đặt ra yêu cầu rất cao là xóa bỏ toàn bộ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có hiệu lực (trừ nhóm các mặt hàng có lộ trình từ 3-5 năm, một số ít có lộ trình tối đa 10 năm). Yêu cầu này vừa là cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp Việt Nam.

TPP - Bước phát triển của tự do hóa thương mại
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

 
Bối cảnh chung
 
Thực ra, TPP không phải là một Hiệp định thương mại tự do (FTA) đầu tiên mà Việt Nam tham gia. Trước đó Việt Nam đã tham gia vào hiệp định FTA nội bộ ASEAN, ASEAN với các nước đối tác, song phương với Chile.

Tuy nhiên, các Hiệp định này cơ bản chỉ tập trung vào lĩnh vực thương mại hàng hoá và mức độ cam kết cũng ở mức vừa phải, trong khi đó TPP lại rất rộng, không chỉ mở rộng ra các lĩnh vực dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ… mà còn có những quy định ràng buộc và vấn đề lao động, môi trường, mua sắm chính phủ, doanh nghiệp nhà nước…
 
Nếu nhìn vào các thành viên hiện nay của TPP thì Mỹ là đối tác chiến lược quan trọng nhất. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ bình quân 3 năm (2010 - 2012) đạt 17 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng ấn tượng là 17,5%. Nếu Việt Nam không tham gia TPP thì khả năng thiết lập một FTA song phương với Mỹ là vô cùng khó khăn.
 
“Bài toán” thuế quan
 
Đàm phán hàng hoá, mà nội dung cốt lõi là đàm phán thuế nhập khẩu là nội dung quan trọng nhất trong các vòng đàm phán FTA mà Việt Nam đã tham gia. TPP đặt ra yêu cầu rất cao: xoá bỏ toàn bộ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định TPP có hiệu lực, trừ một tỷ lệ nhất định nhóm các mặt hàng có thể có lộ trình từ 3-5 năm, một số ít có lộ trình tối đa 10 năm. Yêu cầu này vừa tạo ra cơ hội, vừa đặt ra thách thức cho doanh nghiệp Việt Nam. Với việc xóa bỏ toàn bộ hàng rào thuế quan, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ có cơ hội thâm nhập vào thị trường Mỹ.
 
Gia nhập WTO là tham gia vào một sân chơi với các luật lệ chung, còn tham gia TPP có thể xem như gia nhập “câu lạc bộ những nhà theo chủ nghĩa tự do hoá”. Với mức độ cam kết sâu hơn nhiều so với WTO, thậm chí nhiều lĩnh vực không có trong WTO, tác động hai chiều chắc chắn sẽ rất lớn.

Trong số các mặt hàng xuất khẩu truyền thống, chủ lực của Việt Nam thì dệt may đứng đầu, tiếp đến là giày dép, gỗ và sản phẩm gỗ, thủy sản với kim ngạch xuất khẩu năm 2012 đạt tương ứng 7,5 tỷ USD, 2,3 tỷ USD, 1,8 tỷ USD và 1,2 tỷ USD. Nếu Mỹ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng này thì đây sẽ là lợi thế vô cùng lớn, (dệt may và giày dép là những nhóm mặt hàng Mỹ đang áp dụng thuế rất cao (12 - 48%).

Tuy nhiên, những lợi thế này có thực sự đem lại lợi ích cho doanh nghiệp xuất khẩu hay không còn phụ thuộc vào quy tắc xác định nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa. Đối với dệt may đảm bảo toàn bộ khâu dệt, nhuộm, cắt may phải được thực hiện trong khu vực TPP đang đề xuất. Đây là một khó khăn rất lớn cho doanh nghiệp Việt Nam khi mà hiện tại phần lớn nguyên liệu được nhập khẩu từ ngoài TPP, chủ yếu là từ Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc…

Nếu thực hiện quy tắc xuất xứ này thì mô hình sản xuất dệt may hiện nay sẽ không đem lại giá trị lợi ích nào. Vậy thì điều gì sẽ quyết định tạo ra giá trị gia tăng và tận dụng được lợi ích giảm thuế từ phía Mỹ? Đó chính là đầu tư vào thượng nguồn ngành dệt, tuy nhiên, lĩnh vực này đòi hỏi số vốn khổng lồ và có lẽ chỉ trông chờ chủ yếu vào vốn đầu tư nước ngoài.
 
Năm 1992, Việt Nam xuất khẩu giày dép đạt giá trị 5 triệu USD, 10 năm sau con số này đã gấp gần 400 lần, lên đến 1,95 tỷ USD và năm 2012 đạt 7,26 tỷ USD. Liệu xuất khẩu giày dép sẽ tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao?

Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực thương mại quốc tế cho rằng, thị trường giày dép đã tương đối bão hoà, nếu một quốc gia tiếp tục tăng trưởng xuất khẩu tốt thì có nghĩa là phải dành được thị phần từ các quốc gia khác. Điều này có lẽ đúng, không chỉ giày dép mà còn ở nhiều mặt hàng khác. Với mức thuế nhập khẩu Mỹ áp dụng lên đến 48% đối với giày dép, nếu không phải chịu khoản thuế này thì giày dép Việt Nam sẽ có lợi thế lớn so với giày dép của Trung Quốc, Ấn Độ... trên thị trường Mỹ. Đây là cơ hội rất lớn cho ngành da giày Việt Nam.
 
Nhìn chung, mức thuế suất bình quân của Mỹ không cao, khoảng 4%, do vậy trừ những mặt hàng có thuế cao như dệt may, giày dép thì đại đa số đều có thuế suất thấp, trong đó có thủy sản cũng là một trong những ngành xuất khẩu chính của Việt Nam.

Tuy nhiên, ngành thủy sản nói riêng và nông nghiệp nói chung khi xuất khẩu vào Mỹ thì thuế nhập khẩu lại không phải là rào cản chính mà là các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS). Bài học về quả thanh long là một minh chứng. Kể cả khi vượt qua được các yêu cầu SPS này thì rất nhiều mặt hàng nông thủy sản của ta đã và đang phải đối mặt với thuế chống bán phá giá và thuế trợ cấp mà chính quyền Mỹ áp dụng. Việc con tôm “cõng” trên mình hai loại thuế, thuế chống phá giá áp dụng cho một số doanh nghiệp lên tới 27,5% và thuế chống trợ cấp 5 - 7% thì khả năng giữ được thị trường sẽ rất khó.

 
Bên cạnh những cơ hội về nhập khẩu hàng có chất lượng cao hơn, giá rẻ hơn thay thế cho nguồn hàng từ các nước có trình độ công nghệ thấp hơn như ASEAN, Trung Quốc, thì các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với việc dỡ bỏ hàng rào thuế quan từ mức bình quân 11,7% hiện nay.
 
Trong khi thuế gần như là công cụ bảo hộ duy nhất, khi được dỡ bỏ thì yêu cầu đặt ra là phải xem lại rất nhiều kế hoạch, chiến lược phát triển ngành hiện nay, ví dụ chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô. Thực tế đã chứng minh quy hoạch ngành ô tô đã không đạt bất kỳ mục tiêu nào đề ra.

Nếu phải mở cửa hoàn toàn thị trường nhập khẩu ô tô nguyên chiếc trong TPP thì chắc chắn ngành công nghiệp ô tô trong nước sẽ phải có sự điều chỉnh rất lớn, nếu còn tồn tại thì chắc chắn sẽ co hẹp về những phân khúc không phải cạnh tranh trực tiếp với ô tô nhập khẩu từ Mỹ, Nhật Bản (những nước có ngành công nghiệp ô tô tiên tiến và hiệu quả).

Đối với lĩnh vực nông nghiệp, với khoảng 70% dân số tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, TPP vừa mang lại cơ hội nhưng cũng đem đến nhiều thách thức. Cơ hội mở ra khi tham gia TPP là các mặt hàng nông sản của ta sẽ được tiếp cận với một thị trường rộng lớn, sức tiêu thụ cao, đặc biệt là thị trường Mỹ. Nhiều mặt hàng xuất khẩu có thêm sức cạnh tranh nhờ thuế giảm, như gạo, chè, cà phê, hạt tiêu…

Với công nghệ chăn nuôi tiên tiến, ngành thịt lợn của Mỹ đã xuất khẩu được 6,1 tỷ USD trong năm 2011 và 6,3 tỷ USD năm 2012. Trong khi đó, ngành chăn nuôi ở Việt Nam phổ biến là quy mô hộ gia đình, nhỏ lẻ, chi phí cao, đặc biệt là chi phí cho thức ăn chăn nuôi cao do cơ bản vẫn phải nhập khẩu. Nếu dỡ bỏ thuế nhập khẩu đối với ngành chăn nuôi thì trước mắt tác động có thể không lớn và ngay lập tức, nhưng sẽ có tác động tiêu cực đến các hộ nông dân chăn nuôi trong trung và dài hạn.
 
Dịch vụ tài chính – Thách thức mới
 
Trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, đây là lĩnh vực được các nước TPP rất quan tâm, đặc biệt là Mỹ với kỳ vọng đưa TPP trở thành Hiệp định tự do hóa của thế kỷ XXI với những cam kết sâu rộng về tiếp cận thị trường trên các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán. Với trình độ phát triển thấp, Việt Nam phải đối mặt với các đề xuất mới và chịu nhiều sức ép về mở cửa thị trường.
 
Có thể thấy, TPP được chia thành 2 nhóm có trình độ phát triển thị trường tài chính khác nhau, một bên là nhóm các nước có thị trường tài chính đang phát triển như Việt Nam, Peru, Chile, Mexico, Brunei, Malaysia và một bên là các nước có thị trường tài chính phát triển như Mỹ, Canada, Australia, New Zealand, Singapore. Từ đó cũng hình thành 2 nhóm quan điểm khác biệt nhau. So với Hiệp định thương mại dịch vụ (GATS) của WTO, đàm phán dịch vụ tài chính trong TPP có một số điểm khác biệt lớn như sau:
 
Đàm phán kết hợp mở cửa thị trường dịch vụ với bảo hộ đầu tư. Điều này đặt ra vấn đề về mở rộng đối tượng và phạm vi cam kết trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, đồng thời bổ sung thêm các nghĩa vụ liên quan đến bảo hộ đầu tư như cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước (ISDS), nguyên tắc đối xử tối thiểu (MST)… Các vấn đề này đến nay vẫn còn được các nước thảo luận và chưa có kết luận thống nhất. So với cam kết trong WTO, đây là những vấn đề mới nên đòi hỏi phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi đưa ra quan điểm đàm phán. Những nghĩa vụ này tạo ra cơ hội cho nhà đầu tư nước ngoài thì cũng đồng thời tạo ra thách thức cho các nhà cung cấp dịch vụ tài chính trong nước.
 
Đàm phán TPP được thực hiện theo phương thức tiếp cận chọn bỏ. Khác với phương thức chọn cho (chỉ liệt kê các lĩnh vực cam kết mở cửa, các lĩnh vực không liệt kê thì không có nghĩa vụ gì), đàm phán dịch vụ tài chính trong TPP đi theo phương thức chọn bỏ - liệt kê các bảo lưu trong danh mục các biện pháp không tương thích (viết tắt là danh mục NCM); các nội dung không liệt kê trong danh mục này được hiểu là cam kết thực hiện. Phương thức tiếp cận này thường chỉ áp dụng đối với các nước phát triển đã có mức độ mở cửa thị trường cao và có hệ thống pháp luật trong nước ổn định.
 
Đối với Việt Nam, đây là lần đầu tiên Việt Nam tham gia đàm phán về dịch vụ tài chính với cách tiếp cận mới này và việc liệt kê các biện pháp bảo lưu trong danh mục NCM được cho là thách thức lớn trong quá trình đàm phán để đảm bảo không bị thiếu sót dẫn đến việc mở cửa thị trường vượt quá khả năng quản lý cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước.
 
Các nghĩa vụ cam kết trong TPP rất rộng. Trải qua 17 phiên đàm phán, đến nay các bên đã đạt được sự thống nhất 16/21 điều khoản trong dự thảo lời văn của chương dịch vụ tài chính liên quan đến các nguyên tắc về chính sách quản lý, tự do hóa và mở cửa thị trường. Một số nghĩa vụ cam kết chính bao gồm không phân biệt đối xử giữa nhà cung cấp dịch vụ tài chính trong nước và nước ngoài, cho phép các tổ chức tài chính nước ngoài cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới trên một số lĩnh vực, sản phẩm tài chính, bảo hộ nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực tài chính, nghĩa vụ về minh bạch hóa…
 
Với số lượng thành viên tham gia lớn, ở nhiều trình độ phát triển khác nhau, mối quan tâm khác nhau, đàm phán dịch vụ tài chính TPP vẫn còn một số vấn đề nhạy cảm căn bản chưa đạt được thống nhất như: đưa mua sắm chính phủ và trợ cấp chính phủ vào chương dịch vụ tài chính; cơ chế “bánh cóc” (ratchet) ràng buộc các nước thành viên khi tiến hành sửa đổi các biện pháp bảo lưu thì việc sửa đổi và mức độ sửa đổi sẽ tự động trở thành nghĩa vụ ràng buộc mức độ tự do hóa thị trường của nước thành viên đó, nghĩa vụ cấp phép dịch vụ tài chính mới cho bất kỳ nước thành viên TPP nào không gắn với việc sửa đổi luật trong nước, cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước.
 
Ngoài các nghĩa vụ cam kết chung, các nước còn đặt ra các yêu cầu cam kết cụ thể về mở cửa thị trường và bảo hộ đầu tư đối với một số loại hình dịch vụ tài chính mới mà Việt Nam chưa có trên thị trường tài chính trong nước như mô hình bảo hiểm do các công ty bưu điện cung cấp, bảo hiểm hợp tác xã, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư qua biên giới… Một số nghĩa vụ này đặt ra mức độ mở cửa cao hơn so với WTO, vì vậy được nhận định là khó khăn đối với Việt Nam.
 
Nhìn chung, các nghĩa vụ cam kết sâu rộng trong TPP sẽ đặt ra những sức ép nhất định về thay đổi chính sách trong nước, cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận đối với một số lĩnh vực tài chính mới trên thị trường và điều này dẫn đến áp lực cạnh tranh cao hơn với nhà cung cấp trong nước. Tuy nhiên, sự tham gia mạnh mẽ và tự do hơn của các nhà cung cấp có tiềm lực lớn, có kinh nghiệm lâu năm, có ưu thế về dịch vụ trên thế giới (đặc biệt là các nhà cung cấp dịch vụ Mỹ) có thể mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng trong nước tiếp cận với các sản phẩm dịch vụ tài chính cạnh tranh và có chất lượng.
 
Gia nhập WTO là tham gia vào một sân chơi với các luật lệ chung, còn tham gia TPP có thể xem như gia nhập “câu lạc bộ những nhà theo chủ nghĩa tự do hoá”. Với mức độ cam kết sâu hơn nhiều so với WTO, thậm chí nhiều lĩnh vực không có trong WTO, tác động hai chiều chắc chắn sẽ rất lớn. Kinh nghiệm từ việc tham gia và thực thi cam kết WTO cho thấy sẽ không thể tận dụng được cơ hội, đối phó thành công với các thách thức nếu không quyết tâm, mạnh dạn đổi mới từ quan điểm quản lý, chính sách của Chính phủ đến quản trị và sự chủ động của mỗi doanh nghiệp.
 
Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Tài chính)

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số 6 - 2013

Nguồn: Tạp chí Tài chính ngày 27/06/2013 truy cập từ http://www.tapchitaichinh.vn/Xuat-nhap-khau/TPP-Buoc-phat-trien-cua-tu-do-hoa-thuong-mai/26749.tctc.

Vào TPP, kinh tế Việt Nam được- mất gì?


VOV.VN -TPP là Hiệp định thương mại tự do lớn với phạm vi và mức độ cam kết rộng và sâu nhất mà Việt Nam từng tham gia cho đến nay
 
Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ tạo ra sân chơi với đóng góp trên 40% GDP và khoảng 30% trao đổi thương mại toàn cầu. Do đó, việc tham gia Hiệp định TPP sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức.
Phóng viên VOV.VN có cuộc trao đổi với Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng xung quanh vấn đề này.

** Một nội dung mà doanh nghiệp đang rất ngóng chờ là tiến trình ký kết Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). Bộ trưởng đánh giá thế nào về triển vọng ký kết TPP trong bối cảnh các quốc gia thành viên còn nhiều bất đồng?

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Sau 19 phiên đàm phán chính thức và nhiều phiên không chính thức, đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang bước vào giai đoạn cuối cùng. Các thành viên đang hướng tới việc sớm kết thúc đàm phán. Để thực hiện mục tiêu này, trong thời gian qua các nước TPP đã nỗ lực thúc đẩy đàm phán với việc tổ chức rất nhiều các cuộc họp ở cấp kỹ thuật, cấp Trưởng đoàn và cấp Bộ trưởng. Gần đây nhất, các Bộ trưởng các nước tham gia TPP đã nhóm họp tại Singapore từ ngày 7 đến ngày 10/12/2013 và dự kiến phiên đàm phán cấp Bộ trưởng tiếp theo sẽ diễn ra vào cuối tháng 2/2014.

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng

Với chương trình làm việc dày đặc ngay trong đầu năm 2014, các nước đều mong muốn tiếp tục thúc đẩy đàm phán, hướng tới việc kết thúc đàm phán Hiệp định TPP ngay trong đầu năm 2014.

Tất nhiên, càng đi vào giai đoạn đàm phán quyết định thì các nội dung đàm phán càng phức tạp, đòi hỏi nỗ lực, quyết tâm và thiện chí của các bên. Thậm chí, ở các cuộc đàm phán tương tự trước đây thì một số vấn đề cần được đưa lên lãnh đạo cao hơn cấp Bộ trưởng bàn và quyết định. Tuy nhiên, với thiện chí của tất cả các nước trong thời gian qua, cũng như các kết quả đã đạt được cho đến nay, các nước TPP đều mong muốn kết thúc được đàm phán ngay trong những tháng đầu của năm nay.

** TPP sẽ đem lại nhiều cơ hội và cả thách thức cho Việt Nam. Bộ trưởng có thể chỉ ra những cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp và người lao động?

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Hiệp định TPP là một hiệp định thương mại tự do lớn với phạm vi và mức độ cam kết rộng và sâu nhất mà Việt Nam từng tham gia cho đến nay, tạo ra sân chơi với đóng góp trên 40% GDP và khoảng 30% trao đổi thương mại toàn cầu. Do đó, việc tham gia Hiệp định TPP sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội, cụ thể như sau:

Thứ nhất, Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam tận dụng tốt hơn các cơ hội do quá trình tái cấu trúc cục diện quốc tế và khu vực cũng như xu thế liên kết kinh tế khu vực, đặc biệt là tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đem lại.

Thứ hai, Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam có thêm điều kiện tranh thủ hợp tác quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, triển khai chiến lược hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nói riêng, nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, củng cố trạng thái cân bằng trong quan hệ với các đối tác chủ chốt, góp phần duy trì và củng cố môi trường hoà bình, ổn định và bảo đảm an ninh, quốc phòng.

Ngoài ra, tham gia TPP sẽ giúp Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Tham gia TPP gần như là cách duy nhất trong trung hạn để có quan hệ FTA với Hoa Kỳ và một số nước với thị trường rất tiềm năng với hàng hóa Việt Nam. Ta sẽ có cơ hội đàm phán để các nước mở cửa thị trường cho hàng hóa của Việt Nam. Thuế nhập khẩu nhiều loại hàng hóa sẽ được giảm xuống 0% và đó sẽ là cú hích mạnh cho xuất khẩu. Việc ta có quan hệ FTA với Hoa Kỳ và các nước khác trong TPP chắc chắn sẽ thúc đẩy đầu tư của các nước vào Việt Nam. Quy mô chưa thể dự đoán chính xác được nhưng từ sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài đối với ta sau khi ta vào WTO, có cơ sở để cho rằng họ cũng sẽ quan tâm không kém khi ta ký kết được Hiệp định TPP

Tuy nhiên, bên cạnh đó, Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với một số thách thức tương đối lớn, đó là:

Tham gia TPP sẽ tạo ra sức ép về mở cửa thị trường, cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu không có sự chuẩn bị tốt, nhiều ngành sản xuất và dịch vụ có thể sẽ gặp khó khăn. Tuy nhiên, đây là con đường mà sớm hay muộn ta cũng phải đi qua để chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công, theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng và hiệu quả của tăng trưởng kinh tế.

Tham gia Hiệp định TPP cũng có thể gây ra một số hệ quả về mặt xã hội. Tự do hóa thương mại quá đột ngột có thể dẫn tới phá sản và tình trạng thất nghiệp ở các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh yếu. Tuy nhiên, do nhập khẩu từ Hoa Kỳ và các nước TPP chưa có FTA với ta là không lớn nên nếu có thể đàm phán một lộ trình giảm thuế hợp lý, kết hợp với hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, ta có thể xử lý được vấn đề thất nghiệp nảy sinh do tham gia TPP.

Các yêu cầu trong TPP liên quan đến lao động dự kiến sẽ có tác động tới môi trường lao động ở Việt Nam. Đây sẽ là vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu để có phương án đàm phán phù hợp nhất. Bên cạnh đó, để thực thi cam kết trong TPP, ta có thể sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi nhiều quy định pháp luật về thương mại, đầu tư, đấu thầu, sở hữu trí tuệ … Tuy nhiên, như kinh nghiệm gia nhập WTO đã chỉ ra, với sự chuẩn bị nghiêm túc và nỗ lực cao độ, ta có thể thực hiện thành công khối lượng công việc này.

Tóm lại, TPP là hiệp định với tiêu chuẩn cao, có thể đem lại nhiều lợi ích nếu ta có phản ứng chính sách phù hợp nhưng cũng sẽ có nhiều thách thức. Đoàn đàm phán Việt Nam đang tham gia với cách tiếp cận làm sao vừa xây dựng, cầu thị và linh hoạt nhưng phải đảm bảo các lợi ích cốt lõi của Việt Nam được các nước đáp ứng, đảm bảo các vấn đề mang tính nguyên tắc và thể chế của ta được duy trì và trên hết bằng mọi cách phải đảm bảo lợi ích kinh tế ta thu được từ hiệp định về lâu dài phải lớn hơn các tác động tiêu cực nếu có.

** Vậy để tận dụng tốt cơ hội và biến thách thức thành động lực cải cách phát triển thì các doanh nghiệp sẽ cần phải làm gì?

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Hiệp định TPP được coi một hiệp định FTA quan trọng, được kỳ vọng sẽ là hiệp định kiểu mẫu của thế kỷ 21 với mức độ tham vọng cao về độ rộng và độ sâu của các cam kết mà các nước tham gia sẽ đưa ra. Ngoài các nội dung truyền thống như mở cửa thị trường hàng hoá, tự do hóa lĩnh vực đầu tư, dịch vụ... Hiệp định TPP đề cập tới nhiều vấn đề mới hiện nay như lao động, môi trường, mua sắm của Chính phủ, doanh nghiệp nhà nước v.v... Nói một cách khác, Hiệp định TPP được kỳ vọng sẽ là một mô hình mới về hợp tác kinh tế khu vực, được xây dựng để xử lý các vấn đề đặt ra vào đầu thế kỷ 21, tạo thuận lợi tối đa cho thương mại và đầu tư giữa các nước tham gia Hiệp định.
Thông qua Hiệp định TPP, Việt Nam có cơ hội nâng cao khả năng xuất khẩu bởi khu vực TPP là thị trường rất lớn. Ngoài ra, thông qua Hiệp định TPP, Việt Nam cũng sẽ có cơ hội cải thiện môi trường đầu tư, thu hút thêm đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, các nội dung của Hiệp định TPP cũng hướng các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng trong khu vực, từ đó từng bước tiếp cận thị trường quốc tế và nâng cao vị thế của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.

Nhằm khai thác hiệu quả các cơ hội và lợi thế, đồng thời giảm thiểu tác động tiêu cực do Hiệp định TPP mang lại, thì việc các doanh nghiệp chủ động tham gia vào quá trình tham vấn là một yếu tố cần thiết và quan trọng. Các thành viên TPP đều khuyến khích các doanh nghiệp đóng góp ý kiến đồng thời cũng hướng tới tổ chức nhiều hơn các hoạt động giúp phổ biến thông tin đến doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp tiếp cận với Hiệp định, hiểu về Hiệp định và đóng góp ý kiến có hiệu quả.

Các doanh nghiệp Việt Nam trước tiên cần chủ động tìm hiểu thông tin về hiệp định thông qua việc tích cực tham gia hơn nữa vào quá trình tham vấn với Đoàn đàm phán thông qua Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), các nhà đàm phán, các học giả để có thể trao đổi chi tiết về những vấn đề cụ thể mà họ quan tâm, từ đó có những biện pháp tận dụng các cơ hội do Hiệp định TPP mang lại. Các doanh nghiệp cũng cần nhận thức được những khó khăn có thể có trong bối cảnh mở cửa thị trường, từ đó đưa ra những đề xuất thiết thực và hiệu quả góp phần cho đàm phán đạt kết quả thuận lợi, đồng thời chủ động nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp, tích cực tham gia hơn vào thương mại thế giới và chuỗi cung ứng trong khu vực, từ đó đạt được lợi ích tối đa từ Hiệp định.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần củng cố, đào tạo, nâng cao trình độ và tay nghề đội ngũ nhân lực, đề ra các mục tiêu và phương thức hướng hoạt động của doanh nghiệp theo hướng xuất khẩu. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần tận dụng cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài nhằm tranh thủ lợi thế về vốn, nhân lực và kỹ thuật của các đối tác.

Về dài hạn, các doanh nghiệp trong nước cần bám sát lộ trình và các quy định về mở cửa thị trường của Hiệp định TPP nhằm xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, tận dụng được cơ hội tham gia chuỗi cung ứng trong khu vực.

** Tham gia TPP sẽ giúp Việt Nam mở rộng xuất khẩu và thu hút đầu tư, nhưng sản xuất trong nước sẽ bị tác động mạnh. Vậy để giúp nền sản xuất trong nước giảm sự tác động từ hàng nhập khẩu, khi hầu hết các dòng thuế sẽ bị cắt giảm về 0. Nhà nước sẽ làm gì và các doanh nghiệp nên làm gì?

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Khi quyết định tham gia đàm phán Hiệp định TPP, Việt Nam đã lường trước được khả năng sẽ phải đối mặt với những yêu cầu tự do hóa cao từ các đối tác đàm phán bởi đây là một Hiệp định thương mại tự do hướng đến các tiêu chuẩn cao và Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp hơn so với các thành viên khác trong Hiệp định TPP. Trên thực tế, để các nước TPP xóa bỏ thuế quan sớm cho các mặt hàng xuất khẩu chủ chốt của ta, đổi lại, ta cũng sẽ phải có nhượng bộ tương ứng đối với các mặt hàng các nước TPP khác quan tâm.

Do đó, nhằm mở rộng sản xuất và xuất khẩu, đồng thời giảm thiểu tác động tiêu cực từ mở cửa thị trường và sức ép của hàng nhập khẩu, các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ ngay từ bây giờ.

Về phía các cơ quan nhà nước, cần triển khai các hoạt động nghiên cứu, đánh giá tác động của Hiệp định TPP đối với các lĩnh vực hàng hóa, đầu tư, dịch vụ v.v… để có cơ sở xây dựng và điều chỉnh chính sách dài hạn. Ta cũng cần xây dựng chính sách phát triển các ngành công nghiệp mà Việt Nam dự kiến sẽ có tiềm năng và lợi thế trong khối TPP… và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia vào các chuỗi cung ứng trong khu vực. Đồng thời, việc xây dựng các chính sách thúc đẩy tăng hàm lượng giá trị gia tăng trong tất cả các ngành của nền kinh tế thông qua nâng cấp năng lực, công nghệ, hợp tác dài hạn với các đối tác mạnh trong lĩnh vực tương ứng, đa dạng hóa đổi mới sản phẩm cũng là một nhiệm vụ cần thiết.

Về phía các doanh nghiệp Việt Nam, trước tiên cần chủ động tìm hiểu các thông tin liên quan về hiệp định thông qua việc tích cực tham gia hơn nữa vào quá trình tham vấn với Đoàn đàm phán thông qua Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), các nhà đàm phán, các học giả để có thể nắm bắt thông tin về Hiệp định, về các cam kết cụ thể trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của mình, từ đó có những biện pháp tận dụng các cơ hội do Hiệp định TPP mang lại. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần củng cố, đào tạo, nâng cao trình độ và tay nghề đội ngũ nhân lực, đề ra các mục tiêu và phương thức hướng hoạt động của doanh nghiệp phù hợp với các đòi hỏi của quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế.
Đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần tận dụng cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài nhằm tranh thủ lợi thế về vốn, nhân lực và kỹ thuật của các đối tác. Về dài hạn, các doanh nghiệp trong nước cần bám sát lộ trình và các quy định về mở cửa thị trường của Hiệp định TPP nhằm xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, tận dụng được cơ hội tham gia chuỗi cung ứng trong khu vực.

** Được biết, TPP sẽ có những quy định khắt khe về lao động, môi trường hay nguồn nguyên liệu nội khối, vậy liệu các doanh nghiệp chúng ta có đáp ứng được những yêu cầu này. Bộ trưởng có thể đưa ra lời khuyên giúp doanh nghiệp xây dựng chiến lược phát triển của mình?

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Hiện nay, việc đàm phán Hiệp định TPP chưa kết thúc, do đó chưa có kết quả đàm phán các lĩnh vực cụ thể. Đối với những yêu cầu cao về xuất xứ hàng hóa (bao gồm cả tỉ lệ nguyên liệu nội khối), lao động v.v…, chúng ta đang đàm phán theo hướng tìm mọi giải pháp linh hoạt sao cho thúc đẩy được tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam. Đồng thời, đối với các lĩnh vực như lao động, môi trường, quan điểm của Việt Nam là chia sẻ mục tiêu chung nhưng không ngăn cản cách làm khác nhau ở mỗi nước và hướng tới hợp tác hơn là trừng phạt thương mại.

** Nhân dịp đầu năm mới, Bộ trưởng có thông điệp gì gửi tới các doanh nghiệp Việt Nam?

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Tôi xin được nói rất ngắn gọn: Năm 2013 với rất nhiều khó khăn đã qua đi, Ngành Công Thương xin hết sức cám ơn và đánh giá cao sự nỗ lực, tích cực của cộng đồng doanh nghiệp cả nước trong khắc phục, vượt qua thách thức, góp phần quan trọng cùng Ngành và cả nước hoàn thành thắng lợi nhiều mục tiêu đã được đề ra. Năm mới 2014, tuy hứa hẹn nhiều thuận lợi nhưng vẫn tiềm ẩn không ít điều không thuận. Tuy vậy, tôi có một niềm tin lớn lao là cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam sẽ làm được nhiều việc hơn so với các năm trước, đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà. Chúc năm 2014 sẽ tiếp tục là năm thắng lợi của doanh nghiệp nước nhà, chúc “Mã đáo thành công”./.
 
Đặng Khanh/VOV online (thực hiện)

 Nguồn: BÁO ĐIỆN TỬ ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM  ngày 31/01/2014 truy cập từ http://vov.vn/kinh-te/vao-tpp-kinh-te-viet-nam-duoc-mat-gi-307957.vov.

Giới thiệu tóm tắt về Hiệp định Thương mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP)

1. Lịch sử

Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement – còn gọi là TPP) là một Hiệp định thương mại tự do nhiều bên, được ký kết với mục tiêu thiết lập một mặt bằng thương mại tự do chung cho các nước khu vực châu Á Thái Bình Dương. Hiệp định này được ký kết ngày 3/6/2005, có hiệu lực từ 28/5/2006 giữa 4 nước Singapore , Chile, New Zealand, Brunei (vì vậy Hiệp định này còn gọi là P4).

Tháng 9/2008, Hoa Kỳ tỏ ý định muốn đàm phán để tham gia TPP. Sau đó (tháng 11/2008), các nước khác là Australia, Peru, Việt Nam cũng thể hiện ý định tương tự. Tháng 10/2010, Malaysia chính thức thông báo ý định tham gia đàm phán TPP.

Năm 2010, 2 Vòng đàm phán TPP cấp cao đã được tiến hành với sự tham gia của 4 nước thành viên cũ và 4 nước mới. Ngoài ra còn có một cuộc đàm phán giữa kỳ vào tháng 8/2010 tại Peru và một đàm phán vừa tiến hành tại Brunei (4-8/10/2010) tuy nhiên hiện chưa có thông tin cụ thể về 2 đàm phán này.

Ngày 13/11/2010, Việt Nam tuyên bố tham gia vào TPP với tư cách thành viên đầy đủ.
 
2. Các bên đàm phán

Cho đến nay đã có 08 nước đã tham gia vào 2 Vòng đàm phán chính thức của TPP, bao gồm: Australia, Brunei, Chile, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam. Tháng 10/2010, Malaysia mới thông báo ý định tham gia đàm phán TPP
Trong tương lai, số lượng các Bên tham gia đàm phán có thể thay đổi tùy theo tình hình và quan điểm ở mỗi nước, ví dụ:
  • Hoa Kỳ đã có quyết định chính thức của Obama trong việc tham gia TPP, tuy nhiên Cơ quan Đại diện Thương mại Hoa Kỳ vẫn đang rất vất vả trong việc thuyết phục các nhóm lợi ích trong nước rằng TPP này có lợi cho Hoa Kỳ để giành được sự ủng hộ của họ. Ngoài ra, để TPP được thông qua và có hiệu lực, cả Hạ viện và Nghị viện Hoa Kỳ phải thông qua văn bản thực thi (chứ không được theo thủ tục “Rút gọn” (fast-track) với khả năng can thiệp hạn chế của Nghị viện như trước đây). Vì thế chưa ai biết trước về khả năng Nghị viện Hoa Kỳ thông qua hay không TPP. Hơn nữa, về phía cơ quan hành pháp Hoa Kỳ, mặc dù Tổng thống đã quyết định chính thức tham gia đàm phán TPP nhưng chưa có bất kỳ dấu hiệu nào về quyết tâm hoàn thành đàm phán TPP trong nhiệm kỳ của mình (theo một số chuyên gia thì đây dường như là một biểu tượng cho công chúng thấy về tinh thần tự do hóa thương mại của chính quyền Obama mà thôi).
  • Một số nước khác đang cân nhắc việc tham gia TPP nhưng chưa có quyết định chính thức về việc này ( Canada, Hàn Quốc…)

3. Tính chất cam kết

Về nguyên tắc, mức độ “tự do hóa” trong các nội dung cam kết là điểm để phân biệt các Hiệp định thương mại tự do (Free Trade Agreements - FTA) với các hiệp định mở cửa thương mại thông thường.

Đối với Hoa Kỳ, việc mở cửa thị trường các đối tác lại là vấn đề được đặc biệt nhấn mạnh (và nước này, như trong các trường hợp khác, lại đang có vai trò lớn trong định hướng đàm phán TPP). Vì vậy TPP với sự tham gia của Hoa Kỳ được suy đoán là một thỏa thuận thương mại trong đó các bên sẽ phải đưa ra những cam kết mạnh, mở cửa rộng hơn nhiều so với các cam kết trong WTO.

4. Tình hình đàm phán
  • 2 Vòng đàm phán (vào tháng 3 và tháng 6/2010) đã được tiến hành giữa 8 bên; Ngoài ra còn có một cuộc đàm phán giữa kỳ vào tháng 8/2010 tại Peru và một đàm phán vừa tiến hành tại Brunei (4-8/10/2010) tuy nhiên hiện chưa có thông tin cụ thể về 2 đàm phán này; Các bên đã chỉ định cán bộ tham gia 10 nhóm đàm phán cấp chuyên viên về thương mại hàng hóa phi nông sản, nông nghiệp, các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ, dịch vụ viễn thông, dịch vụ tài chính, hải quan, xuất xứ hàng hóa, mua sắm công, môi trường, xây dựng năng lực thương mại;
  • Các vấn đề được đàm phán trong 2 Vòng vừa qua mới chỉ tập trung vào những nội dung mang tính thủ tục, cấu trúc mà chưa đi vào đàm phán các lĩnh vực thực chất theo ngành, đặc biệt là:
+ Việc tham gia của các bên đàm phán mới

+ Xử lý mối quan hệ giữa các FTA cũ đang tồn tại giữa các nước tham gia đàm phán và TPP mới:

Ý kiến ban đầu là để TPP tồn tại song song với các FTAs đã có và các nước phải đáp ứng các nghĩa vụ trong các FTA lẫn TPP.

Vấn đề khó khăn là việc tiếp tục các đàm phán cắt giảm thuế quan trong TPP mới như thế nào (Đàm phán thay thế hoàn toàn danh mục cắt giảm thuế quan đang có trong các FTA giữa các nước thành viên? Chỉ đàm phán cắt giảm thuế quan giữa các thành viên chưa có FTA với nhau? Đàm phán TPP mới độc lập với các FTA giữa các bên nhưng chỉ áp dụng sau khi các FTA liên quan đã hoàn thành lộ trình thực thi?). Hoa Kỳ, Việt Nam, Chile cho rằng không nên xem xét lại các FTA (nói cách khác, đàm phán TPP sẽ là đàm phán mới) trong khi Australia, New Zealand và Singapore lại ủng hộ quan điểm ngược lại.

Dường như đã có sự thống nhất ban đầu về việc sẽ đàm phán lại cả gói về các vấn đề như dịch vụ, đầu tư, các biện pháp vệ sinh dịch tễ, hàng rào kỹ thuật đối với thương mại, mua sắm công và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

+ Các vấn đề về vệ sinh dịch tễ (SPS) và hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) : Liên quan đến quan ngại của Hoa Kỳ về vấn đề thịt bò (nguy cơ bò điên) và các quy định hạn chế nhập khẩu thịt gà, thịt lợn và một số loại trái cây.

+ Lao động và môi trường : Cải thiện tình trạng môi trường và lao động ở các nước thông qua việc thiết lập, thực thi tốt các quy định liên quan; không sử dụng các quy định về lao động và môi trường để hạn chế bất hợp lý thương mại và đầu tư.

+ Giải quyết tranh chấp : Chủ yếu xoay quanh vấn đề nhà đầu tư nước ngoài có thể kiện Chính phủ nước nhận đầu tư ra một thiết chế trọng tài thương mại quốc tế không.
+ Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và mua sắm công : Hoa Kỳ có xu hướng tiếp tục các yêu cầu liên quan đến vấn đề này như trong các FTA mà Hoa Kỳ đã ký.

5. Phạm vi đàm phán

Do hiện tại chưa có quyết định chính thức về các vấn đề sẽ được đưa ra thảo luận và cam kết trong khuôn khổ TPP nên chưa thể xác định chính xác phạm vi đàm phán.
Tuy nhiên, có thể suy đoán phần nào về phạm vi của TPP mới trên cơ sở xem xét 2 yếu tố:
  • Phạm vi của TPP4 (TPP ký kết năm 2005 giữa 4 nước): Vì TPP mới được đàm phán trên cơ sở đã có TPP4 nên đây có thể là nền cho đàm phán TPP mới; và
  • Xu hướng đàm phán các FTA gần đây của Hoa Kỳ: Do Hoa Kỳ là đối tác đàm phán lớn nhất và cũng là động lực lớn nhất thúc đẩy đàm phán TPP mới nên suy đoán là quan điểm của nước này sẽ ảnh hưởng lớn đến kết quả đàm phán TPP.
(i) Về phạm vi của TPP4
  • Cắt giảm thuế quan theo lộ trình từ 2006 đến 2015
  • Các vấn đề thương mại phi thuế quan như xuất xứ hàng hóa, các biện pháp phòng vệ thương mại, các biện pháp vệ sinh dịch tễ, hàng rào kỹ thuật đối với thương mại, sở hữu trí tuệ, mua sắm công, chính sách cạnh tranh
  • Các vấn đề phi thương mại như hợp tác trong lĩnh vực môi trường, lao động
  • Chưa bàn đến các vấn đề đầu tư, dịch vụ tài chính
(ii) Về xu hướng đàm phán FTA của Hoa Kỳ

Thông qua các FTA đã ký của Hoa Kỳ (đặc biệt là NAFTA), Hoa Kỳ đã thiết lập một hệ thống “tiêu chuẩn vàng” (“gold standards”) cho các FTAs của mình và có xu hướng tăng cường những quy định này trong các FTA tương lai (bao gồm cả TPP – Hoa Kỳ đã bày tỏ quan điểm rằng Hoa Kỳ muốn TPP là một “FTA của thế kỷ 21” với các “tiêu chuẩn” cao hơn so với các FTA trước). Cụ thể, FTA mà Hoa Kỳ sẽ ký có thể có các nội dung sau:
  • Thuế quan: Cắt giảm hầu hết các dòng thuế, thực hiện ngay hoặc thực hiện với lộ trình rất ngắn
  • Dịch vụ: Tăng mức độ mở cửa các lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ tài chính
  • Đầu tư: Tăng cường các quy định liên quan đến đầu tư nước ngoài và bảo vệ nhà đầu tư
  • Quyền sở hữu trí tuệ: Tăng mức độ bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ
  • Bảo vệ tính mạng, sức khỏe: Tăng mức độ bảo vệ thông qua các quy định khắt khe hơn về vệ sinh dịch tễ và rào cản kỹ thuật;
  • Cạnh tranh và mua sắm công: Tăng cường cạnh tranh, đặc biệt trong lĩnh vực mua sắm công
  • Các vấn đề lao động: đặc biệt là các vấn đề về quyền lập hội (công đoàn), quyền tập hợp và đàm phán chung của người lao động, quy định cấm sử dụng mọi hình thức lao động cưỡng bức, quy định cấm khai thác lao động trẻ em, quy định không phân biệt đối xử trong lực lượng lao động.
Ủy ban tư vấn về Chính sách Thương mại Quốc tế

Nguồn:  Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam truy cập ngày 31/07/2014 từ http://trungtamwto.vn/forum/topic/gioi-thieu-tom-tat-ve-hiep-dinh-thuong-mai-xuyen-thai-binh-duong-tpp.

Giới thiệu chung về Hiệp định TPP

Lịch sử hình thành Hiệp định TPP (tên tiếng Anh là Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement) là Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương. Do lúc đầu chỉ có 4 nước tham gia nên còn được gọi là P4. Hiệp định này khởi nguồn là Hiệp định Đối tác kinh tế chặt chẽ hơn do nguyên thủ 3 nước Chi-lê, Niu Di-lân và Xinh-ga-po (P3) phát động đàm phán nhân dịp Hội nghị Cấp cao APEC 2002 tổ chức tại Mê-hi-cô. Tháng 4 năm 2005, Bru-nei xin gia nhập với tư cách thành viên sáng lập trước khi vòng đàm phán cuối cùng kết thúc, biến P3 thành P4.


Lịch sử hình thành
 
Hiệp định TPP (tên tiếng Anh là Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement) là Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương. Do lúc đầu chỉ có 4 nước tham gia nên còn được gọi là P4.
 
Hiệp định này khởi nguồn là Hiệp định Đối tác kinh tế chặt chẽ hơn do nguyên thủ 3 nước Chi-lê, Niu Di-lân và Xinh-ga-po (P3) phát động đàm phán nhân dịp Hội nghị Cấp cao APEC 2002 tổ chức tại Mê-hi-cô. Tháng 4 năm 2005, Bru-nei xin gia nhập với tư cách thành viên sáng lập trước khi vòng đàm phán cuối cùng kết thúc, biến P3 thành P4.
 
Đây là Hiệp định mang tính "mở". Tuy không phải là chương trình hợp tác trong khuôn khổ APEC nhưng các thành viên APEC đều có thể gia nhập nếu quan tâm. Xinh-ga-po đã nhiều lần thể hiện mong muốn mở rộng TPP và sử dụng TPP như một công cụ để hiện thực hóa ý tưởng về Khu vực Mậu dịch Tự do Châu Á-Thái Bình Dương của APEC (FTAAP).
 
 
Các nội dung chính của Hiệp định TPP – P4
 
Hiệp định TPP có phạm vi điều chỉnh rộng, bao gồm cả hàng hóa, dịch vụ (chưa bao gồm dịch vụ tài chính do được đàm phán sau), vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), rào cản kỹ thuật (TBT), chính sách cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ và minh bạch hóa. Ngoài ra, còn có một chương về hợp tác và 02 văn kiện đi kèm về Hợp tác Môi trường và Hợp tác Lao động.
 
Theo thỏa thuận, các bên tham gia P4 sẽ tiếp tục đàm phán và ký 02 văn kiện quan trọng về đầu tư và dịch vụ tài chính, chậm nhất là sau 02 năm kể từ khi P4 chính thức có hiệu lực (tức là từ tháng 3 năm 2008).
 
Điểm nổi bật nhất của P4 là tự do hóa rất mạnh về hàng hóa. Thuế nhập khẩu được xóa bỏ hoàn toàn và phần lớn là xóa bỏ ngay từ khi Hiệp định có hiệu lực.
 
Về dịch vụ, P4 thực hiện tự do hóa mạnh theo phương thức chọn-bỏ. Theo đó, tất cả các ngành dịch vụ đều được mở, trừ những ngành nằm trong danh mục loại trừ.
 
 
Hiệp định TPP mở rộng và sự tham gia của Việt Nam
 
Tháng 9 năm 2008, Mỹ tuyên bố tham gia TPP. Tiếp theo đó, tháng 11 năm 2008, Úc và Pê-ru cũng tuyên bố tham gia TPP. Tại buổi họp báo công bố việc tham gia của Úc và Pê-ru, đại diện các bên khẳng định sẽ đàm phán để thiết lập một khuôn khổ mới cho TPP. Kể từ đó, các vòng đàm phán TPP được lên lịch và diễn ra cho đến nay.
 
Từ năm 2006, qua nhiều kênh, Xinh-ga-po đã rất tích cực mời Việt Nam tham gia TPP - P4. Trước những cân nhắc cả về khía cạnh kinh tế và chính trị, Việt Nam chưa nhận lời mời này của Xinh-ga-po.
 
Tuy nhiên, với việc Mỹ quyết định tham gia TPP, và trước khi tuyên bố tham gia TPP, Mỹ đã mời Việt Nam cùng tham gia Hiệp định này, Việt Nam đã cân nhắc lại việc tham gia hay không tham gia TPP.
 
Đầu năm 2009, Việt Nam quyết định tham gia Hiệp định TPP với tư cách thành viên liên kết. Tháng 11 năm 2010, sau khi tham gia 3 phiên đàm phán TPP với tư cách này, Việt Nam đã chính thức tham gia đàm phán TPP. Trước đó, tháng 10 năm 2010, Ma-lai-xia cũng chính thức tham gia vào TPP, nâng tổng số nước tham gia đàm phán lên thành 9 nước.
 
 
Hiệp định TPP và quá trình đàm phán
 
Hiệp định TPP hiện nay được kỳ vọng sẽ trở thành một khuôn khổ thương mại toàn diện, có chất lượng cao và là khuôn mẫu cho các Hiệp định thế kỷ 21. Phạm vi của Hiệp định sẽ bao gồm hầu hết các lĩnh vực có liên quan tới thương mại, trong đó có nhiều lĩnh vực mới như môi trường, lao động, các vấn đề xuyên suốt liên quan đến thương mại như chuỗi cung ứng, doanh nghiệp vừa và nhỏ v.v…
 
Cho tới nay, Hiệp định TPP đã trải qua 7 vòng đàm phán, lần lượt được tổ chức tại các quốc gia thành viên là Úc (vào tháng 3 năm 2010), Hoa Kỳ (tháng 6 năm 2010), Bru-nây (tháng 10 năm 2010), Niu-di-lân (tháng 12 năm 2010), Chi-lê (tháng 2 năm 2011), Xinh-ga-po (tháng 3 năm 2011) và Việt Nam (tháng 6 năm 2011).
 
Về nội dung đàm phán, hiện hơn 20 nhóm đàm phán đã bước vào giai đoạn thảo luận thực chất trên cơ sở các đề xuất và văn bản thể hiện quan điểm của mỗi quốc gia thành viên trong từng lĩnh vực cụ thể thuộc phạm vi của Hiệp định. Một số nhóm đã đạt được những tiến bộ nhất định trong việc thu hẹp khoảng cách về quan điểm trong các lĩnh vực như mở cửa thị trường đối với hàng công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, đầu tư,v.v...
 
 
Ngoài các nội dung đàm phán mang tính truyền thống trong các FTA trên, các quốc gia thành viên còn tập trung thảo luận nhiều đề xuất và biện pháp để thúc đẩy hợp tác trong các vấn đề liên quan tới hoạch định chính sách, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, phát triển chuỗi cung cấp và sản xuất giữa các nước thành viên, nâng cao sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào quá trình lưu thông hàng hóa giữa các quốc gia thành viên TPP, cũng như thúc đẩy sự phát triển chung của các quốc gia thành viên.
 
 
Với mục tiêu duy trì tính “mở” của Hiệp định TPP, tức là có cơ chế kết nạp thêm thành viên mới trong tương lai và các bên có thể tiếp tục đàm phán những vấn đề phát sinh sau khi Hiệp định có hiệu lực, các nhóm đàm phán cũng đang nỗ lực đưa ra nhiều đề xuất và biện pháp liên quan để bảo đảm Hiệp định sẽ mang lại lợi ích nhiều nhất cho tất cả những nước đang và sẽ tham gia Hiệp định.
Nét mới trong đàm phán Hiệp định TPP so với các FTA truyền thống trước đây là sự tham gia của các đối tượng liên quan như doanh nghiệp, hiệp hội, tổ chức xã hội. Tại mỗi phiên đàm phán, các đối tượng trên luôn được tạo cơ hội để trao đổi thông tin cũng như bày tỏ quan điểm và nguyện vọng đối với các nội dung đàm phán của Hiệp định thông qua các buổi hội thảo và diễn đàn dành cho các đối tượng liên quan được tổ chức bên lề các phiên đàm phán.
 
 
Những cơ hội và thách thức của Việt Nam khi tham gia Hiệp định TPP
 
 
Những cơ hội khi tham gia Hiệp định TPP
 
- Hội nhập khu vực đang nổi lên đóng vai trò chủ đạo với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, đặc biệt là tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Xu thế này không chỉ phản ánh sự mưu cầu lợi ích kinh tế mà còn phản ánh cục diện chính trị quốc tế mới, sau sự nổi lên nhanh chóng của một số nước đang phát triển hàng đầu. Tham gia vào Hiệp định TPP, một cấu trúc quan trọng của khu vực, sẽ giúp Việt Nam nắm bắt và tận dụng tốt hơn các cơ hội do quá trình tái cấu trúc cục diện quốc tế và khu vực cũng như xu thế hội nhập kinh tế khu vực đem lại.
 
- Tham gia Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam có thêm điều kiện, tranh thủ hợp tác quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, triển khai chiến lược hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nói riêng, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
 
- Thông qua Hiệp định TPP, Việt Nam sẽ có cơ hội đàm phán để Hoa Kỳ mở cửa thị trường cho hàng hóa của Việt Nam, tạo cú hích mạnh để thúc đẩy xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu. Bên cạnh đó, việc tham gia Hiệp định TPP sẽ góp phần thúc đẩy hơn nữa đầu tư của Hoa Kỳ và các nước vào Việt Nam.
 
Những thách thức khi tham gia Hiệp định TPP
 
- Việc cam kết và thực hiện các cam kết sâu và rộng trong khuôn khổ đàm phán Hiệp định TPP sẽ đặt ra những thách thức không nhỏ, đặc biệt là sức ép về mở cửa thị trường, cạnh tranh đối với các doanh nghiệp của Việt Nam, vốn còn yếu, khả năng quản lý còn nhiều bất cập. Nếu không có sự chuẩn bị tốt, nhiều ngành sản xuất và dịch vụ có thể sẽ gặp khó khăn. Tuy nhiên, đây là con đường mà sớm hay muộn Việt Nam cũng phải đi qua để chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công, theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng và hiệu quả của tăng trưởng kinh tế.
 
- Tham gia Hiệp định TPP có thể gây ra một số hệ quả xã hội tiêu cực như tình trạng phá sản và thất nghiệp ở các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh yếu. Ngoài ra, kết quả đàm phán nội dung lao động trong Hiệp định TPP có thể sẽ có tác động tới môi trường lao động ở Việt Nam.
 
- Để thực thi cam kết trong Hiệp định TPP, Việt Nam có thể sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi nhiều quy định pháp luật về thương mại, đầu tư, đấu thầu, sở hữu trí tuệ… Với những kinh nghiệm có được từ quá trình đàm phán gia nhập WTO, đây có thể không phải là một thách thức quá lớn đối với Việt Nam.
 


Theo NCIEC, MUTRAP
 

Nguồn: Vụ Thông Tin Báo Chí - Bộ Ngoại Giao truy cập ngày 31/07/2014 từ http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/nr091019080134/nr091019083649/ns110923115344.

80% CPU Intel trên thế giới sẽ sản xuất tại Việt Nam








Bà Sherry Boger, Tổng giám đốc Intel Products Việt Nam giới thiệu CPU đầu tiên được sản xuất tại Nhà máy Intel đặt tại Khu công nghệ cao TPHCM -Ảnh: Hùng Lê
(TBKTSG Online) - Ngày 29-7, Công ty Intel Products Việt Nam công bố lần đầu tiên sản xuất bộ vi xử lý (CPU) tại nhà máy lắp ráp và kiểm định chíp của công ty tại TPHCM và dự kiến 80% sản lượng CPU của Intel trên thế giới sẽ sản xuất tại đây vào giờ này năm sau.
 
Bà Sherry Boger, Tổng giám đốc Intel Products Việt Nam cho biết như trên tại buổi giới thiệu sản phẩm CPU tại nhà máy của công ty đặt tại Khu công nghệ cao TPHCM (SHTP).

Theo bà Boger, sản phẩm CPU này thuộc dòng Haswell - Intel Core thế hệ thứ 4 - bộ vi xử lý thuộc thế hệ mới và hiện đại hiện nay của Tập đoàn Intel dùng cho PC (máy tính cá nhân gồm máy tính để bàn và laptop).

Theo ông Lau Chze Tat, Giám đốc Nhà máy Intel Products Việt Nam, quá trình triển khai sản xuất bộ vi xử lý Haswell đã diễn ra trong hai tháng, từ đào tạo ban đầu cho đến cung cấp sản phẩm cuối cùng.

Thế hệ vi xử lí thứ Core i thứ 4 của Intel tên Haswell được công bố tăng 15% về tốc độ xử lí. Điều tuyệt vời hơn ở Haswell là nó còn được tăng cường khả năng xử lí đồ họa, giảm tiêu thụ năng lượng...
Để làm ra sản phẩm này nhà máy Intel ở Việt Nam phải cho nhập 71 máy và thiết bị chuyên dùng từ các nhà máy của Intel ở Malaysia và Costa Rica cũng như đưa 105 kỹ sư Việt Nam đi đào tạo học tập kinh nghiệm tại nhà máy Intel ở Malaysia. Theo kế hoạch sắp tới, nhà máy Intel Việt Nam sẽ nhập khẩu thêm 159 máy móc thiết bị chuyên dùng để sản xuất dòng sản phẩm này.

Tổng Giám đốc Intel Products Việt Nam cho rằng nhà máy của Intel tại SHTP đang đi đúng lộ trình và nhiệm vụ đã đề ra ban đầu: đầu tiên là sản xuất chipset di động dành cho máy tính xách tay và các thiết bị di động, sau đó là sản phẩm Atom SoC (System on a Chip) vào cuối tháng 12 năm 2013, và bây giờ là sản phẩm CPU Haswell. Việc này sẽ góp phần nâng cao năng lực lắp ráp và kiểm định của Intel trên toàn cầu.

Theo bà Boger việc tập đoàn Intel chọn nhà máy Intel Việt Nam sản xuất lắp ráp dòng sản Haswell - Intel Core này vì đây là nhà máy lớn nhất của Intel trên thế giới. Mặt khác, sau khoảng 4 năm hoạt động sản phẩm làm ra tại nhà máy này ít bị hỏng nhất so với các nhà máy khác của Intel. Hầu như sản phẩm làm ra tại nhà máy Intel ở SHTP không bị hỏng.

Theo Phó Chủ tịch UBND TPHCM Lê Mạnh Hà, việc Intel Việt Nam sản xuất thành công sản phẩm CPU Haswell sẽ tác động mạnh đến các ngành công nghệ ở Việt Nam; đồng thời cho thấy Việt Nam có thể lĩnh hội và chiếm lĩnh các công nghệ tiên tiến của thế giới.

Năm ngoái kim ngạch xuất khẩu của Intel Việt Nam đạt hơn 1,8 tỉ đô la Mỹ. Với việc đưa dòng sản phẩm mới có giá trị cao hơn này ra thị trường đang được kỳ vọng sẽ mang về giá trị xuất khẩu cao hơn trong thời gian tới.

Tập đoàn Intel công bố kế hoạch đầu tư 1 tỉ đô la Mỹ vào nhà máy lắp ráp và kiểm tra linh kiện bán dẫn đặt tại khu công nghệ cao TPHCM vào năm 2006. Theo bà Boger, hiện nay Intel đã giải ngân được khoảng 45% tổng vốn đầu tư và kế hoạch đầu tư đang đúng theo lộ trình đề ra.

Nhiều ý kiến cho rằng nhà máy Intel ở Việt Nam làm công đoạn cuối, không mang lại giá trị gia tăng cao trong sản phẩm và các công đoạn sản xuất cũng đơn giản. Tuy nhiên theo Intel Products Việt Nam, lắp ráp và kiểm định được xem là một phần quan trọng của quy trình sản xuất trong nhà máy bán dẫn của Intel. Đó là bước cuối cùng trong sản xuất các sản phẩm silicon của Intel để sẵn sàng đưa các sản phẩm đến với khách hàng trên toàn thế giới. Quy trình xử lý bộ vi xử lý sản phẩm tại đây đòi hỏi người lao động kỹ năng và những kỹ thuật sản xuất không đơn giản.

Tính đến cuối tháng 6-2014,nhà máy Intel tại Việt Nam đã tạo hơn 1.000 công việc trong ngành công nghệ cao, và thu hút được 80 nhà cung cấp, trong đó có nhà cung cấp Việt Nam.

Hiện nhà máy Intel Việt Nam đã ngưng lắp ráp và sản xuất chipset di động Intel. Tuy nhiên, khả năng nhà máy này sẽ sản xuất sản phẩm Skylake - là nền tảng 2015 nối tiếp nền tảng Haswell / Broadwell trong năm 2014 của Intel, bao gồm nhiều cải tiến mới.
Hùng Lê

Nguồn:  "Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online" ngày 29/07/2014 truy cập từ http://www.thesaigontimes.vn/118178/80-CPU-Intel-tren-the-gioi-se-san-xuat-tai-Viet-Nam.html.