Thứ Hai, 15 tháng 4, 2013

Có trung thực mới thành công trong khoa học

SGTT.VN - Đang là giảng viên đại học Konkuk (Hàn Quốc), chủ tịch hiệp hội Công nghệ sinh học sinh sản châu Á, là một trong những nhà khoa học đầu ngành công nghệ sinh học, vậy mà GS Nguyễn Văn Thuận quyết định rời bỏ tất cả để về nước. “Đầu quân” cho đại học Quốc tế – đại học Quốc gia TP.HCM và trung tâm Điều trị vô sinh bệnh viện Tân Tạo – đại học Tân Tạo, ông cùng đồng sự đeo đuổi một dự án kỳ lạ: tạo ra một con bò trị giá 200 triệu USD.


Trò chuyện với ông, chúng tôi không chỉ nhìn thấy sự khắc khoải của một người xa xứ muốn quay về cội nguồn, mà còn là niềm khao khát cống hiến của một trí thức và nỗi ưu tư về nền khoa học Việt Nam.
 
Điều gì thôi thúc giáo sư về Việt Nam, quay lưng lại với công danh, đãi ngộ có được bấy lâu ở nước ngoài?
 
Đơn giản là tôi đã đi 19 năm rồi và đến lúc phải quay về. Ở nước ngoài, nhiều người tiếc về quyết định này của tôi, vì như thế tôi sẽ mất đi khoản trợ cấp sau khi về hưu. Nhưng tôi nghĩ, nếu làm đến 65 tuổi nhận được lương hưu thì cũng tốt, thế nhưng sau đó tôi cũng chỉ sống đến 70 – 80 tuổi, có sống mãi để nhận lương hưu đâu. Hơn nữa, khi còn trẻ, ai cũng nhìn về tương lai nhưng khi về già, người ta lại thích nói về quá khứ vì tương lai còn đâu để mà nói. Tôi về nước là muốn làm những gì để khi về già có chuyện mà nói với bạn bè. Chứ nếu đi làm chỉ để mong khi về già nhận được lương hưu, rồi cũng chỉ để ăn, ngủ, tận hưởng và chết đi thì thật tiếc.
 
Giáo sư từng mơ ước tạo ra cho Việt Nam một con bò 200 triệu USD từ nhân bản vô tính. Công việc ấy đang được tiến hành như thế nào?
 
Hiện nay trên thế giới để sản xuất dược phẩm, người ta có hai hướng đi khác nhau. Hướng đầu tiên ai cũng biết đó là dựa trên hoá chất, hay còn gọi là hoá dược. Hướng đi thứ hai là dựa trên kỹ thuật công nghệ sinh học. Hướng đi này mới xuất hiện, nhưng có ưu điểm là không cần đầu tư những nhà máy to lớn, đắt tiền, chỉ cần những phòng thí nghiệm nhỏ.
 
Có thể giải thích nôm na thế này: nhiều bệnh nan y sinh ra do thiếu một enzyme nào đó. Thí dụ, đối với bệnh tiểu đường là thiếu insulin, bản chất là một protein. Như thế, nếu là protein thì người ta có thể giải trình tự DNA của nó. Nếu biết được trình tự DNA thì việc tổng hợp DNA không khó khăn mấy. Lúc này, người ta đưa đoạn DNA của người vào tế bào động vật, ở đây là con bò. Từ tế bào này, chỉ có một con đường duy nhất để tạo nên một con bò sữa hoàn chỉnh là nhân bản vô tính. Kết quả là con bò sữa này sẽ mang gen sản xuất insulin người. Người ta sẽ áp dụng một vài kỹ thuật để chuyển insulin vào trong sữa bò. Chỉ cần vắt sữa bò, ly trích insulin là người ta sẽ có được “thuốc” trị bệnh tiểu đường. Với quy trình trên đây, khoa học sẽ làm ra được những con bò có giá vài triệu hay vài trăm triệu USD vì chúng có thể tạo ra dược phẩm chữa bệnh cho con người. Khi về nước, tôi ước mơ làm được câu chuyện này, rất phù hợp với những nước đang phát triển, không cần đầu tư nhiều.
 
Trong bối cảnh khoa học công nghệ Việt Nam hiện nay, giáo sư có tin sẽ nhân bản vô tính thành công trên động vật vào năm 2015 như đã khẳng định?
 
Không có gì khó cả, vì hàng chục năm nay chúng tôi chỉ làm công việc này. Không những nhân bản vô tính một cá thể từ một tế bào, chúng tôi có thể nhân bản để tạo nên 25 thế hệ từ một tế bào. Kết quả đã được công bố trên tập san Cell Stem Cell tháng 3 vừa rồi và được chọn làm trang bìa của tập san. Thực ra để nhân bản vô tính, đòi hỏi đầu tư không nhiều lắm, nhưng nhân bản để làm gì mới quan trọng. Từ nay đến cuối năm, tôi hy vọng sẽ có những thiết bị tối thiểu để thực hiện được công việc nghiên cứu, hướng dẫn nghiên cứu sinh và cùng với họ bắt tay vào làm.
 
Nhưng nếu mọi chuyện đơn giản như thế, tại sao các nước không đi theo con đường này để làm giàu?
 
Đúng là đơn giản, vì trong khoa học nếu biết tường tận thì không có gì khó cả. Đối với nền khoa học công nghệ Việt Nam hiện nay, cái khó có chăng là chuyện tréo ngoe khi người học A lại được phân công làm chuyện B và ngược lại, cuối cùng không làm được chuyện gì cả. Nếu sử dụng người theo cách này thì trong khoa học nước ta, người ta không cần phải làm nghiên cứu sinh tiến sĩ. Bởi tiến sĩ cũng chỉ là một nghề trong xã hội và phải làm một việc thôi đó là nghiên cứu, và làm suốt đời cho đến chết thì mới ra được vấn đề. Theo tôi, mọi chuyện phụ thuộc tầm nhìn của những người lãnh đạo.
 
Trong thời đại ngày nay, một quốc gia chỉ cần giỏi vài nghề là đủ giàu, chứ không phải phát triển tràn lan, thấy ai làm được cũng bắt chước làm theo. Người Việt chúng ta có những câu rất hay: “Trăm hay không bằng tay quen”, “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Cả Nhật Bản chỉ cần có vài công ty nổi tiếng là đủ giàu rồi. Cách đây hơn chục năm, Chính phủ Nhật đã tự hỏi 50 năm sau họ phải nuôi dân bằng gì, vì máy tính và xe hơi không thể nuôi dân họ được nữa. Và họ nghĩ đến chuyện 50 năm sau phải phát triển hướng bán nội tạng và tế bào. Để mua một cái xe hơi, người ta có thể đắn đo nhưng để chữa bệnh, dù có phải bán hết gia sản, người ta vẫn chấp nhận.
 
Hiện nay ở nước ta có nghịch lý là dù có nhiều tiến sĩ, nhưng khoa học vẫn chưa cất cánh được. Giáo sư nhìn vấn đề này như thế nào?

Đi làm chỉ để mong khi về già nhận được lương hưu, rồi cũng chỉ để ăn, ngủ, tận hưởng và chết đi thì thật tiếc.



Trong khoa học, tốt nghiệp tiến sĩ thật ra chỉ mới là anh học trò. Để mở cánh cửa khoa học, người ta cần phải có ít nhất 5 – 7 năm hậu tiến sĩ và vài năm nữa để được công nhận là giáo sư, vì khi đó anh mới có thể đứng một mình được. Dĩ nhiên, thực tế cũng có một số tiến sĩ rất xuất sắc, tự đi được bằng đôi chân của mình. Nhưng thường thì trong 100 tiến sĩ chỉ có một người đạt đến học vị giáo sư. Ở nước ta hiện nay, một số người đi học tiến sĩ chỉ nhằm có được vị trí nào đó trong cơ quan để thăng tiến trong quản lý. Một thực trạng nữa là một số người rất giỏi học ở nước ngoài khi về nước thì được giao làm công chuyện chẳng dính dáng đến chuyên môn đã học, làm sao phát triển được, rất uổng. Hy vọng trong tương lai mọi chuyện sẽ thay đổi. Hiện nay ở ta quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED) có cách làm khá hay: trong vòng hai năm, nếu một người làm khoa học không công bố một đề tài nghiên cứu nào thì người đó không thể chen chân vào NAFOSTED. Nếu trong một trường đại học hay viện nghiên cứu, ai cũng làm như thế thì trong một thời gian thôi cơ quan này sẽ phát triển.

Trong khoa học, nếu làm thuần về nghiên cứu cơ bản thì rất khó quay về Việt Nam làm việc vì không có đất ứng dụng và đòi hỏi tiền bạc đầu tư rất nhiều. Nhưng nếu làm khoa học cơ bản mà có ứng dụng thì Việt Nam là nơi có thể ứng dụng nhiều nhất. Tôi có may mắn là khi về Việt Nam có thể tham gia dự án phát triển trung tâm Điều trị vô sinh của bệnh viện Tân Tạo, lĩnh vực mà tôi hiểu biết trước đây. Có thể xem đây là chuyện “lấy ngắn nuôi dài”, giúp tôi có điều kiện làm được những chuyện dài hơi sau này.
 
Nhân nói đến trung tâm Điều trị vô sinh bệnh viện Tân Tạo, như chúng tôi biết lĩnh vực hỗ trợ sinh sản đã phát triển rất nhanh ở Việt Nam. Vậy giáo sư và trung tâm sẽ đi theo hướng nào, kỹ thuật mới gì sẽ phục vụ cộng đồng?
 
Khi xem qua một số hướng nghiên cứu trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản ở Việt Nam, tôi thấy một số hướng đi chúng tôi đã làm được rất lâu ở Hàn Quốc và thế giới cũng đã làm lâu lắm rồi, như chẩn đoán di truyền tiền làm tổ (PGD – Preimplantation Genetic Diagnosis).

Hiện nay, ở một số bệnh viện Việt Nam, để chẩn đoán bệnh lý di truyền cho con, người ta áp dụng phương pháp chẩn đoán tiền sản, nếu có bất thường bác sĩ sẽ khuyến cáo người mẹ bỏ thai. Nhưng bắt mẹ bỏ con thì quả là điều đau lòng, còn về mặt đạo đức chung thì chuyện này hoàn toàn không hay gì. Còn trong kỹ thuật PGD, sau khi tinh trùng thụ tinh xong với trứng, ngày thứ nhất sẽ tạo ra phôi hai tế bào, ngày thứ hai ra phôi bốn tế bào và ngày sau đó ra phôi tám tế bào. Chúng tôi mới lấy ra một tế bào, tế bào này được nuôi tiếp thành 4 – 6 tế bào, chúng tôi sẽ sử dụng tế bào này để chẩn đoán sớm các bệnh liên quan đến di truyền như hội chứng Down, Turner... Trong tương lai, số tế bào còn lại sẽ được sử dụng để làm tế bào gốc và sẽ được dùng nếu em bé bị bệnh trong quá trình trưởng thành hoặc khi về già.
 
Về phía trung tâm Điều trị vô sinh bệnh viện Tân Tạo, khi triển khai chúng tôi sẽ áp dụng những kỹ thuật mới như PGD đã nói, hay một kỹ thuật mà hiện Việt Nam chưa làm được, là giúp người nam không tinh trùng có con.

Kỹ thuật này gọi là ROSI (Round Spermatid Injection), chúng tôi công bố vào năm 2006, dựa trên việc lấy tinh tử trong tinh hoàn người nam, hoạt hoá lên, rồi bơm vào trứng để thụ tinh. Kỹ thuật này đã triển khai thành công ở nước ngoài. Nếu làm ở Việt Nam, đây sẽ là tin vui cho những người nam bị biến chứng vô sinh do mắc quai bị từ nhỏ.
 
Ở nhiều cuộc nói chuyện, giáo sư cho rằng khoa học Việt Nam tụt hậu so với Hàn Quốc 50 năm, vậy cơ sở nào để thu hẹp khoảng cách đó trong khi khoa học nước nhà còn khá nhiều bất cập?
 
Chỉ có hy sinh thôi. Thay vì làm việc 8 giờ/ngày như hiện nay, các nhà nghiên cứu phải làm việc 15 – 20 giờ/ngày. Các trường đại học Việt Nam đang hô hào làm đại học nghiên cứu, nhưng cứ đến 4 giờ chiều tôi thấy ai cũng chuẩn bị lấy xe về nhà thì làm sao thu hẹp khoảng cách đó được. Không bỏ thói quen này thì 100 năm sau chúng ta cũng không mơ thấy đại học nghiên cứu. Nghề nghiên cứu là phải ở trong phòng thí nghiệm, có vậy mới làm ra chuyện. Cuộc sống bình thường của một nhà khoa học nước ngoài là buổi sáng đi dạy, buổi chiều nói chuyện với sinh viên sau đại học, và sau 4 giờ chiều mới bắt đầu làm nghiên cứu. Khi ở Hàn Quốc, tôi không bao giờ về nhà trước 8 – 9 giờ tối. Tôi và vợ chưa bao giờ đi ngủ trước 1 giờ khuya, đến 6 giờ sáng lại phải dậy đi làm.
 
Vậy nếu trong vai một nhà quản lý, giáo sư phát triển khoa học Việt Nam theo hướng nào?
 
Chúng ta chỉ nên tập trung một vài mũi nhọn thôi và làm quyết liệt đến cùng. Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp, vậy chúng ta hãy cố gắng làm ra những trái cây, sản vật thật ngon, thật chất lượng. Nên chú trọng vào chất lượng, chứ đừng chạy theo số lượng, có ai làm nhiều nghề mà giàu đâu. Khi về nước, tôi có nghe một số người định làm những giống lúa biến đổi gen để tăng năng suất. Theo tôi, nếu làm như thế thì chẳng bán được cho ai, vì ở những quốc gia phát triển hiện nay, mỗi bữa người ta ăn rất ít cơm.
 
Vợ giáo sư cũng là nhà khoa học và với cường độ làm việc như giáo sư miêu tả, liệu trong gia đình giáo sư có phải kêu gọi sự hy sinh của người thân?
 
Đúng vậy, vì thế mới khổ cho con cái. Tôi có lỗi với đứa con nhỏ nhiều nhất vì cháu nói tiếng Việt không rành. Do không có thời gian, mỗi khi nói chuyện với cháu, chúng tôi phải nói tiếng Nhật cho nhanh. Tôi hy vọng khi đưa cháu về nước ở luôn lần này, tôi sẽ nhờ người dạy cho cháu tiếng Việt nhiều hơn ở trường học và cháu sẽ nói được tiếng Việt. Còn về chuyện kêu gọi hy sinh của người thân, cái đó là phải có. Dĩ nhiên, muốn làm được như thế thì xã hội cũng phải lo cho nhà khoa học đủ sống. Rồi người thân yêu cũng thế, họ cần trở thành một chỗ dựa chắc chắn để người làm khoa học an tâm làm việc.
 
Theo chúng tôi biết, nhiều học trò của giáo sư ở nước ngoài cũng mong giáo sư về để tạo động lực và cảm hứng cho họ phát triển trong nước sau này?
 
Đúng, đây chính là điểm mấu chốt làm thay đổi suy nghĩ của tôi và tôi đã quyết định trở về quê hương làm việc, nhưng tôi có lời khuyên với họ: nếu học tiến sĩ về nước ngay thì rất uổng vì không có nhiều đất phát triển. Thay vào đó, họ hãy đi tiếp, đi nhiều nơi khác nhau để tích luỹ nhiều hành trang, rồi muốn về nước làm việc cũng không muộn.
 
Khi giáo sư chia sẻ ý tưởng về nước trên một số tờ báo, không ít bạn đọc cho rằng rồi đây giáo sư sẽ phải hối hận về quyết định này. Giáo sư sẽ trấn an họ như thế nào?
 
Đúng là nếu về nước mà không có ai hậu thuẫn tài trợ xây dựng một phòng thí nghiệm chuẩn mực để nghiên cứu thì rất chông chênh. Nhưng tôi may mắn được ông Nguyễn Quân, bộ trưởng bộ Khoa học và công nghệ, hứa hỗ trợ chuyện này. Tôi không yêu cầu gì nhiều, chỉ xin như thế. Tôi mong rằng từ đây đến cuối năm tôi có thể bắt đầu công việc. Nếu chưa kịp, tôi có thể sang chỗ thầy Phan Kim Ngọc của đại học Khoa học tự nhiên để làm việc. Thầy Ngọc hứa tạo điều kiện cho tôi sử dụng phòng thí nghiệm của thầy để nghiên cứu. Khi về đây tôi cũng nghĩ đến câu “Một cánh én không làm nổi mùa xuân”, làm sao để đội ngũ cùng chuyên ngành cùng ngồi lại với nhau, cùng nhau hợp tác mới thành công được.
 
Ở một người làm khoa học, giá trị nào mà giáo sư đánh giá cao nhất?
 
Đó là sự trung thực, yếu tố quan trọng nhất để khoa học thành công. Làm khoa học cũng như xây một cái nhà, phải có nền móng, đó là công bố ra quốc tế nghiên cứu của mình. Quá trình này như một chiếc thang, công bố thứ hai dựa trên công bố thứ nhất, công bố thứ ba dựa trên công bố thứ hai, cứ tuần tự như thế. Như vậy, đã không trung thực một nghiên cứu thì tất cả những nghiên cứu sau sai hết, hướng mình đi theo một con đường khác, điều đó rất nguy hiểm.
 
Chính sự trung thực đã làm nên thành công của Nhật Bản, một đất nước vốn chịu đựng biết bao tai ương trong suốt lịch sử. Ở các trường học Nhật, từ lớp 1 tới lớp 6, thầy cô không bao giờ chấm điểm cho học sinh. Họ ra bài tập về nhà để học sinh tự làm, sau đó lật ra phía sau để tự chấm điểm. Có lần con trai tôi làm xong bài, lật qua tự chấm 9 điểm vì sai một lỗi. Tôi thử hỏi “Sao con không cho 10 vì thầy cô có biết đâu”, con tôi phản ứng: “Con biết sai là đúng rồi, cần gì phải cho 10 nữa”.
 

Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp, vậy chúng ta hãy cố gắng làm ra những trái cây, sản vật thật ngon, thật chất lượng. Nên chú trọng vào chất lượng, chứ đừng chạy theo số lượng, có ai làm nhiều nghề mà giàu đâu.

Thực hiện: Phan Sơn – Trung Dũng
Chân dung hội hoạ: Hoàng Tường

Nguồn: BÁO ĐIỆN TỬ SÀI GÒN TIẾP THỊ MEDIA ngày 15/04/2013 truy cập từ http://sgtt.vn/Khoa-giao/176760/Co-trung-thuc-moi-thanh-cong-trong-khoa-hoc.html.

Chắc Cà Đao

Chắc Cà Đao
 
Chắc Cà Đao: Tên một con rạch và cũng là tên một chợ nhỏ (nay là thị trấn An Châu) gần thị xã Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Học giả Vương Hồng Sển, ghi lại hai giải thích là:
 
Theo ông Nguyễn văn Đính, thì địa danh Chắc Cà Đao có thể do chữ Khmer chắp kdam (bắt cua) mà ra vì vùng nầy xưa kia có nhiều cua.
 
Theo nhà văn Sơn Nam, Chắc Cà Đao do chữ Prek Pedao; Prek = rạch; pédao = loại dây mây; rạch có nhiều dây mây.
 
Và ông nghĩ rằng giả thuyết của Nguyễn Văn Đính hợp lý hơn.
 
Th.S Trần Minh Thương

NguồnTrường Đại học Cần Thơ, ngày 29/02/2012 truy cập từ http://se.ctu.edu.vn/bmnv/index.php?option=com_content&view=article&id=214:ting-vit-gc-khmer-trong-ngon-ng-binh-dan-min-tay-nam-b-nhin-t-goc-ca-dao&catid=28:t-vng-hc&Itemid=57.


Trúng mùa đánh bắt cá bông lau

Ngư dân đánh lưới cá bông lau ở vàm Chắc Cà Đao - sông Hậu (thị trấn An Châu, huyện Châu Thành và xã Nhơn Mỹ, huyện Chợ Mới) trúng đậm cá bông lau con nước tháng Giêng, đồng thời trúng cả giá bán.

Ngư dân đánh bắt cá bông lau ở vàm Chắc Cà Đao.

Anh Trần Văn Dũng (ấp Mỹ Thạnh, xã Nhơn Mỹ) cho biết, con nước kém từ mùng 9 đến 14 tháng Giêng âm lịch, các xuồngđánh lưới cá bông lau đều bắt được từ 2-5 con mỗi đêm, mỗi con cá nặng từ3,5-9kg. Tiểu thương mua cá của ngư dân giá bình quân 120.000 – 130.000đồng/kg, cao điểm hút hàng giá cá tăng đến 150.000 đồng/kg.
 
Theo anh Dũng, có khoảng 50-60 xuồng đánh lưới cá bông lau ở khu vực vàm Chắc Cà Đao và người nào cũng thu nhập vài triệu đồng chỉ trong con nước tháng Giêng.
 
Tin, ảnh: HÒA BÌNH
 
Nguồn: Báo An Giang, ngày 25/02/2012 truy cập từ http://www.baoangiang.com.vn/newsdetails/1D3FE1934DE/Trung_mua_danh_bat_ca_bong_lau.aspx.

Mù Cang Chải

Mù Cang Chải, đôi khi viết là Mù Căng Chải là một huyện miền tây tỉnh Yên Bái.

Vị trí địa lý

Huyện Mù Cang Chải phía bắc giáp huyện Văn Bàn của tỉnh Lào Cai, phía nam giáp huyện Mường La của tỉnh Sơn La, phía tây giáp huyện Than Uyên của tỉnh Lai Châu, phía đông giáp huyện Văn Chấn cùng tỉnh. Huyện nằm dưới chân của dãy núi Hoàng Liên Sơn, ở độ cao 1.000 m so với mặt biển.

Đơn vị hành chính

Huyện có 1 thị trấn là thị trấn Mù Cang Chải (huyện lị), và 13 xã: Kim Nọi, Hồ Bốn, Chế Tạo, Khao Mang, Dế Xu Phình, Chế Cu Nha, Cao Phạ, Púng Luông, Nậm Khắt, Mồ Dề, Nậm Có, La Pán TẩnLao Chải.

Lịch sử

Châu Mụ Cang Chải (theo cách viết lúc đó) được thành lập ngày 18/10/1955, thuộc Khu tự trị Thái Mèo, gồm 13 xã: Hô Bơn, Khau Mang, Lao Chai, Pu Mun, Mô Đê, Kim Noi, Chè Cu Nha, La Pan Tay, Gieo Su Phinh, Pung Luông (từ châu Than Uyên), Cao Pha (từ châu Văn Chấn), Nậm Khát, Hiêu Trai (từ châu Mường La) [2].

Thắng cảnh

Các thửa ruộng bậc thang ở ba xã La Pán Tẩn, Chế Cu Nha và Zế Xu Phình đã được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Việt Nam xếp hạng là danh thắng quốc gia.[3]

Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia ngày 15/04/2013 truy cập từ http://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%B9_Cang_Ch%E1%BA%A3i.

Ngắm ruộng bậc thang Mù Cang Chải

 
(TNO) Mù Cang Chải (Yên Bái) - nơi nổi tiếng với những cung ruộng bậc thang được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng danh thắng quốc gia, những ngày này đẹp như tranh vẽ.

Đến La Pán Tẩn, Chế Cu Nhai, Dế Su Phình ngắm ruộng bậc thang uốn lượn như những làn sóng biển dập dìu sẽ cảm nhận rõ hơn cả về cảnh quan thiên nhiên đẹp và hùng vĩ ở xứ sở này.
 
Cùng Thanh Niên Online ngắm ruộng bậc thang tại Mù Cang Chải:


ruộng bậc thang


ruộng bậc thang
Từ trên cao nhìn xuống, ruộng bậc thang như một bức tranh đa màu sắc, tạo cho người xem cảm giác thanh bình - Ảnh: Đan Hạ

ruộng bậc thang
Từng bậc, từng bậc xếp lên nhau tạo nên các cung ruộng bậc thang là đặc trưng của vùng cao Tây Bắc - Ảnh: Đan Hạ

ruộng bậc thang
Mù Cang Chải đang vào vụ lúa… - Ảnh: Đan Hạ

ruộng bậc thang
Sắc xanh của cây, sắc vàng nhẹ của lúa hòa với cái trong trẻo của nắng đầu thu - Ảnh: Đan Hạ

ruộng bậc thang
Nhìn gần, những sóng lúa dập dờn như sóng biển - Ảnh: Đan Hạ

ruộng bậc thang
Giữa “bậc” nọ và “bậc” kia có “vách ngăn” cao để giữ nước. Những “vách ngăn” này tạo nên đường nét cho các cung ruộng bậc thang- Ảnh: Đan Hạ

ruộng bậc thang
Cùng với màu xanh đậm của cây cối, màu xanh pha vàng của những cánh đồng lúa làm cho không gian Tây Bắc thêm đa sắc - Ảnh: Đan Hạ

ruộng bậc thang
Sự phân tách không đồng đều giữa các bậc làm cho bức tranh ruộng bậc thang thêm nhiều đường nét - Ảnh: Đan Hạ

ruộng bậc thang
Tại Mù Cang Chải, những cung ruộng bậc thang ở các xã La Pá Tẩn, Chế Cu Nhai, Dế Su Phình đã được xếp hạng danh thắng quốc gia - Ảnh: Đan Hạ

Đan Hạ
 

Nguồn: Báo Thanh Niên Online ngày 15/09/2012 truy cập từ http://www.thanhnien.com.vn/pages/20120910/ngam-ruong-bac-thang-mu-cang-chai.aspx.



Mùa vàng Mù Cang Chải

(Dân trí)- Vào những ngày gặt lúa, đâu đâu cũng thấy dân “phượt” hỏi nhau “đã đi Mù Cang Chải chưa?”. Đơn giản vì Mù Cang Chải mùa này rất đẹp khi lúa ở các thửa ruộng bậc thang bắt đầu chín vàng. Điều đó hối thúc chúng tôi lên đường đến với “những thửa ruộng trên mây”.

Huyện Mù Cang Chải, hay còn gọi là Mù Căng Chải, là huyện vùng cao phía Tây tỉnh Yên Bái. Huyện nằm dưới chân dãy Hoàng Liên Sơn ở độ cao 1000m so với mặt nước biển.

Đây là nơi sinh sống của nhiều dân tộc như Mông, Dao, Thái và cả người Kinh. Các thửa ruộng bậc thang ở ba xã La Pán Tẩn, Chế Cu Nha và Dế Xu Phình đã được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Việt Nam xếp hạng là danh thắng quốc gia.
Những ngày mùa gặt nắng vàng ruộm là điều kiện lý tưởng để đi Mù Cang Chải. Đoàn chúng tôi khởi hành từ sáng sớm trải qua quãng đường 250km đến Tú Lệ, trời cũng đã về chiều. Nghỉ ngơi ở Tú Lệ chuẩn bị cho hôm sau vượt đèo Khau Phạ.

Sau quãng đường dài, được tắm suối nước nóng ngay bên đường giúp chúng tôi cảm thấy rất thoải mái. Đặc biệt ở đây có món cốm do người Thái làm rất ngon. Cốm nơi đây như có thêm hương vị núi rừng hòa quyện tạo nên một vẻ rất riêng.
Những thửa ruộng lúa đã bắt đầu chín vàng...
Những thửa ruộng lúa đã bắt đầu chín vàng...
Sáng ngày thứ hai sau khi đã nghỉ ngơi lấy sức, cả đoàn bắt đầu lên đường vượt đèo Khau Phạ.

Đứng ở chân đèo Khau Phạ, điểm đầu của huyện Mù Căng Chải, nhìn xuống dưới là cánh đồng Cao Phạ.

Những thửa ruộng như những miếng vá chỗ xanh chỗ vàng tạo nên một tấm thảm thật đẹp. Đèo Khau Phạ trở nên khá khó đi khi sương phủ dày đặc. Nhưng sang đến bên kia đèo thì bầu trời trong xanh lại hiện ra trước mắt.
Theo kế hoạch chúng tôi bắt đầu khám phá Nậm Khắt, rồi đến La Pán Tẩn, Dế Xu Phình rồi Mảng Mù. Đến đâu chúng tôi cũng được chiêm ngưỡng những thửa ruộng bậc thang với sắc vàng rực rỡ.

Chúng tôi thật sự bị choáng ngợp. Những thửa ruộng xếp tầng uốn cong theo sườn núi, ngọn núi này nối tiếp ngọn núi khác. Lác đác giữa lớp lớp tầng lúa là một vài nhà dân, hoặc những chòi canh lúa của người trong bản.

Gần hơn, nơi những ruộng lác đác mấy người đi thăm lúa hay những chú bé chăn trâu. Xa xa trên đỉnh núi mây vẫn vờn quanh và dưới chân núi là những dòng suối uốn lượn. Tất cả tạo nên một bức tranh đẹp giản dị, thanh bình.
... Như một bức tranh thanh bình
... Như một bức tranh thanh bình
... Như một bức tranh thanh bình
Trong chuyến đi, chúng tôi gặp rất nhiều người cũng bị những ruộng lúa nơi đây cuốn hút, từ những bác đã gần 60 tuổi đến những bạn thanh niên mới đôi mươi.

Có những người đã đi rất nhiều lần nhưng vẫn cứ muốn đi tiếp và có cả những người từ miền Nam xa xôi cũng quyết tâm đến đây một lần. Họ đều là những con người cởi mở, vui tính, dễ gần và đều có chung một tình yêu với những cảnh đẹp của quê hương.
Trời về chiều, dù rất lưu luyến nhưng chúng tôi vẫn phải tạm biệt những ruộng bậc thang để về thị trấn Mù Cang Chải nghỉ ngơi cho chuyến quay về vào sáng hôm sau.

Trước khi ra về, ai nấy đều ngoái lại như muốn nhìn ngắm thêm một lần nữa. Và tôi biết rằng tất cả mọi người đều giống như tôi sẽ quay lại nơi đây vào mùa này năm sau.
Mời độc giả cùng chiêm ngưỡng những thửa ruộng bậc thang chín vàng
Bài và ảnh: Nha Trang

Bài và ảnh: Nha Trang

Bài và ảnh: Nha Trang

Bài và ảnh: Nha Trang

Bài và ảnh: Nha Trang
Bài và ảnh: Nha Trang

Nguồn: Báo điện tử Dân trí ngày 07/08/2012 truy cập từ http://dantri.com.vn/van-hoa/mua-vang-mu-cang-chai-627093.htm.












 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Sáu năm WTO và giấc mơ ba bát phở

Có tới một nửa số người ở nông thôn còn chưa được tiếp cận những dịch vụ thiết yếu như nước sạch hay nhà vệ sinh. Ảnh: Kinh Luân.
 
(TBKTSG) - Bát phở đầu năm 2013, thật lạ, vẫn giữ nguyên giá của đầu năm 2011. Vẫn 30.000 đồng. Đây là một chuyện hiếm có, vì suốt nhiều năm trước đó, tốc độ tăng giá của các dịch vụ ăn uống thiết yếu là tương đối ổn định. Không phải giá ổn định, mà là tốc độ tăng giá ổn định.
Dễ nhìn thấy nhất có lẽ là ở các loại quà sáng ở Hà Nội, thành phố nổi tiếng với các món đặc sản điểm tâm sáng, phong phú, tuy bình dân nhưng lại cầu kỳ có “gu”, như chính những người thích thưởng thức các món ăn đó.

Trong nhiều năm, ở nhiều báo cáo của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, hay UNDP, và tất nhiên, của kha khá các bộ, ngành, Việt Nam luôn được coi là một trong những quốc gia đạt thành tích thần kỳ về giảm nghèo. Ở hội nghị các nhà tài trợ cuối cùng sau 20 năm tổ chức dưới thể thức này (tháng 12-2012), một con số so sánh được đưa ra là mức thu nhập bình quân đầu người đã tăng từ khoảng 200 đô la Mỹ những năm 1990, lên 1.600 đô la vào năm 2012. Tăng trưởng thu nhập tám lần ấy quả là một điều mừng.

Gần hơn một chút, tính từ thời điểm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thu nhập bình quân đầu người đã tăng thêm ngót 1.000 đô la Mỹ, từ hơn 700 đô la Mỹ vào năm 2006. Sau sáu năm hội nhập một cách chính thức vào nền thương mại toàn cầu, đó là một sự gia tăng đáng kể, hứa hẹn một tiềm năng nâng cao mức sống và tích lũy của cải.

Với mức thu nhập tăng thêm, suy diễn máy móc bằng lý thuyết, giả định rằng người lao động bình thường của năm 2012 có thể nhân khả năng chi trả cho sinh hoạt và các tiện nghi cuộc sống của mình lên tương ứng tám lần so với chính họ khoảng 15 năm trước? Rất tiếc mọi sự lại không đơn giản như thế. Nhất là với những người có thu nhập thấp, chiếm tầng đáy của tháp thu nhập trong xã hội, nơi trung hòa những thành quả về vật chất của nhóm thu nhập trung bình và thu nhập cao.

Nhóm thu nhập ở đáy
 
Công bằng mà nói, sau ngót một thập kỷ hội nhập kinh tế quốc tế, đánh dấu bằng Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ đầu những năm 2000, rồi gia nhập WTO, mức sống của nhóm người nghèo đã có sự cải thiện nhất định về nhiều mặt. Cơ hội việc làm mở ra nhiều hướng mới, có lẽ sẽ giúp họ những kỹ năng mới để vật lộn trong một thị trường lao động của tương lai, thay vì những ngành nghề tay chân xưa kia như thợ hồ, buôn gánh bán bưng hay làm nông. Đô thị hóa bùng nổ cũng mang lại cho họ sự tiếp cận nhanh chóng những tiện nghi hiện đại như công nghệ liên lạc di động cùng các phương tiện giải trí tiên tiến.

Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ vào tương quan thu nhập và chi tiêu đối với những nhu cầu thiết thân thì có lẽ cuộc sống trong những năm gần đây chưa cho phép người nghèo mơ tưởng tới những điều kiện sinh hoạt “xông xênh” hơn trước.

Quay lại với chuyện bát phở, sở dĩ dùng chuyện này để minh họa cho mức sống, là bởi thông thường người ta chỉ ăn “phở” khi đã đủ, hoặc đã thừa “cơm”.

Hơn chục năm trước, số tiền làm được trong ngày của một người thợ hồ là khoảng 15.000 đồng, bằng khoảng ba bát phở. Công việc thợ hồ trung bình ở thời điểm hiện tại được trả khoảng 90.000-100.000 đồng/ngày. Nói cách khác, tiền công giờ đây của anh ta cũng vẫn chỉ cho phép anh ăn được ba bát phở, không hơn.

Chắc người thợ hồ sẽ không lý giải được hết những nguyên nhân dích dắc của điều đó. Chỉ biết rằng, với thu nhập ba-bát-phở, trong lúc còn bao nhiêu các chi phí khác chực chờ bòn rút túi tiền eo hẹp, dễ hiểu anh ta sẽ không được chọn phở làm món quà sáng hàng ngày, dẫu có yêu thích “phở” đến mấy.

Trớ trêu, trong khi Việt Nam liên tục đứng trong hàng ngũ những nước tăng trưởng vượt bậc về xuất khẩu nông sản và thủy hải sản, chi phí dành cho lương thực và thực phẩm lại đã và đang trở thành gánh nặng cơ bản cho cuộc sống người dân. Tăng giá các nhu yếu phẩm hàng ngày tất yếu sẽ tác động tới các nhu cầu khác như đi lại, học hành, vui chơi giải trí, và cuối cùng là khả năng tích lũy của cải. Người nghèo và người thu nhập thấp tất nhiên sẽ là đối tượng dễ bị tổn thương nhất.

Bản thân thu nhập và mức sống của người nghèo cũng có chênh lệch giữa các vùng miền, và đặc biệt là giữa đô thị và nông thôn. Dù sao người nghèo đô thị vẫn còn được hưởng những tiện ích mang tính “công cộng”, chẳng hạn như dịch vụ giải trí, còn người nghèo nông thôn và miền núi vẫn còn chịu những thiếu thốn rất lớn. Theo nhận định của UNDP nhân dịp còn lại 1.000 ngày của thời hạn thực hiện mục tiêu thiên kỷ, có tới một nửa số người ở nông thôn còn chưa được tiếp cận những dịch vụ thiết yếu như nước sạch hay nhà vệ sinh. Bát phở đối với nhóm người này còn là giấc mơ xa vời hơn người thợ hồ ở thành phố.

Bài toán thu - chi và giấc mơ ăn phở
 
Thực ra, không dễ để phân tích tương quan tuyệt đối giữa việc tăng thu nhập quốc dân theo bình quân đầu người với khả năng cải thiện chất lượng sống của quảng đại quần chúng. Sự so sánh nào cũng là tương đối, và giấc mơ được ăn “phở” (với ý nghĩa là một món ăn được ưa thích) đôi khi cũng là điều hiện hữu ở cả những nước giàu.

Tuy là vậy, nếu tạm coi thu nhập ở cấp độ cá nhân tương ứng xuất khẩu tầm quốc gia và chi tiêu tương ứng với nhập khẩu, thì số liệu xuất - nhập khẩu được trích từ tổng kết về kinh tế Việt Nam sau năm năm gia nhập WTO vừa qua rất đáng suy nghĩ. Theo đó, trong cả giai đoạn 2007-2011, xuất khẩu đã tăng 2,4 lần, từ 39,8 tỉ đô la Mỹ lên 96,9 tỉ đô la Mỹ. Nhập khẩu cũng tăng đúng 2,4 lần, từ 44,9 tỉ đô la lên 106,7 tỉ đô la. Tạm hiểu là triền miên nhập siêu. Nếu ở một gia đình, đã có thể nghe thấy tiếng người vợ văng vẳng một giọng xót ruột: “Làm sao mà thu bao nhiêu chi hết bấy nhiêu thế này”.

Chưa nói tới việc nhìn sâu vào con số nhập siêu còn thể hiện sự lệch lạc giữa các mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu. Xuất khẩu trong sáu năm vừa qua vẫn dựa trên các mặt hàng chưa chế biến, hoặc chế biến sơ sài, giá trị gia tăng thấp, điển hình là khoáng sản, nông lâm thủy hải sản, dệt may. Còn nhập khẩu lại là những sản phẩm đắt đỏ như máy móc, thiết bị, hay dược phẩm.

Phải chăng vì thế mà câu thơ loại Bút Tre sau đây ngày càng phổ biến, dù có nhiều dị bản:
Sáu năm Vê-kép-Tê-Ô
Xuất siêu thì ít, (vì) xuất thô thì nhiều.

Bảo Bảo

Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online ngày 11/04/2013truy cập từ http://www.thesaigontimes.vn/Home/xahoi/sukien/94503/Sau-nam-WTO-va-giac-mo-ba-bat-pho.html.

Cơ hội WTO đi qua, ngổn ngang ở lại

Một hình ảnh thường thấy tại các sàn giao dịch chứng khoán thời điểm trước và sau khi Việt Nam gia nhập WTO, năm 2006-2007. Ảnh: Thanh Tao.
 
(TBKTSG) - Hơn sáu năm đã trôi qua kể từ ngày Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO: World Trade Organization). Từng ấy thời gian nay nhìn lại cũng đủ để nói rằng Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội tận dụng tư cách thành viên WTO, một phần do cái tâm thế “ăn xổi, ở thì” ngay sau khi gia nhập.
 
Rất nhãn tiền

Theo báo cáo “Đánh giá tổng thể tình hình kinh tế xã hội Việt Nam sau năm năm gia nhập WTO” mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa mới công bố, tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 2007-2011, tức năm năm sau khi gia nhập WTO thua sút giai đoạn 2002-2006, tức năm năm trước khi vào WTO, về nhiều mặt. Từ xuất khẩu, nhập khẩu, GDP đến đầu tư toàn xã hội... tất cả đều có mức tăng trưởng kém hơn trước.

Thật ra tình hình không đơn giản như thế.

Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào tháng 1-2007. Sự hào hứng của giới đầu tư nước ngoài và dân kinh doanh trong nước đã tạo ra những kỷ lục ngay trong năm đó. Tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế tăng kỷ lục ở mức 53,9% theo giá thực tế. Nhìn lại mức tăng chỉ vài ba phần trăm hiện nay mới thấy đây là con số khó tưởng tượng nổi. Mức tăng tín dụng này đã phần nào biến tiền ảo thành tiền thật.

Bong bóng tài sản hào nhoáng quá, sức hút của sự làm giàu trong chốc lát nhờ chứng khoán, địa ốc, ngân hàng lớn quá, mọi người bỏ sở trường nhảy vào sở đoản và mọi chuyện hư sự từ đây.
Trước khi vào WTO, giá đủ loại tài sản ở Việt Nam đã tăng vọt. Chủ các công ty đang làm ăn bình thường bỗng một hôm thức dậy thấy tài sản của mình được định giá gấp 5, 10 lần (mà từ phổ biến lúc đó gọi là 5 chấm, 10 chấm). Vào WTO, quả bong bóng tài sản này càng phình to rất nhanh. Không hiếm công ty niêm yết trên sàn có giá cổ phiếu gấp mấy chục lần mệnh giá như FPT (665.000 đồng), SJS (728.000 đồng), ACB (292.000 đồng)...

Tiền ảo trên sàn chuyển sang tiền ảo bất động sản, giá nhà đất tăng vọt từng ngày, từng giờ, làm ai nấy đều “phấn khởi” vì biến thành tỉ phú trong chốc lát. Sự giàu có trên sàn chứng khoán hay địa ốc dù sao cũng là ảo (trừ phi bán đi cho người khác) nhưng định giá cho nó thì không ảo chút nào. Và dựa trên sự định giá cao ngất đó, ngân hàng đã cho vay vô tội vạ trong khi vẫn tưởng mình đang cầm cái chuôi trong tay là vật thế chấp đang lên giá đều đều. Tín dụng đã biến tiền ảo thành tiền thật, đổ vào nền kinh tế là thế.

Xã hội giàu lên nên nhập khẩu tăng vọt đến 40% trong năm 2007 (lại một kỷ lục mới), nhập siêu hàng hóa tăng mạnh, đạt 14,2 tỉ đô la vào năm 2007 và 18,0 tỉ đô la năm 2008. Thế nhưng đồng tiền vẫn không hề mất giá; thậm chí còn lên giá trong một thời gian từ tháng 10-2007 đến tháng 4-2008. Đó là bởi dòng tiền nước ngoài chảy mạnh vào Việt Nam trong năm 2007 ngay sau khi có tin Việt Nam trở thành thành viên WTO: vốn đầu tư trực tiếp tăng kỷ lục đến 93,4% so với năm trước (5,6 tỉ đô la); vốn gián tiếp cũng đổ vào đến 6,5 tỉ đô la. Cán cân tổng thể thặng dư đến 10,2 tỉ đô la. Một kỷ lục khác của năm này là mức đầu tư toàn xã hội tăng đến 46,5%. Tất cả những yếu tố đó đã giúp GDP có mức tăng kỷ lục trong năm 2007 - 8,5%, cao nhất so với 10 năm trước đó.

Và ở đây đã xuất hiện phép thử rất nghiệt ngã: nếu mọi người bình tĩnh tận dụng hết những lợi thế vừa mới xuất hiện trong năm 2007, năm đầu tiên sau gia nhập WTO để đi vào sản xuất kinh doanh theo thế mạnh của từng người, tận dụng cơ hội để mở rộng thị trường xuất khẩu, để đầu tư chiều sâu, thâm nhập thị trường nội địa thì mọi chuyện đã khác. Đằng này bong bóng tài sản hào nhoáng quá, sức hút của sự làm giàu trong chốc lát nhờ chứng khoán, địa ốc, ngân hàng lớn quá, mọi người bỏ sở trường nhảy vào sở đoản và mọi chuyện hư sự từ đây.

Thị trường chứng khoán là nơi phản ánh rõ nét cơ hội đã vụt qua như thế nào: sau khi đạt đỉnh 1.170 điểm vào đầu năm 2007, thị trường đã lình xình lên xuống, rồi nhanh chóng tụt dốc từ tháng 10-2007, xuống đáy còn 235 điểm vào tháng 2-2009.

Nhưng như những con bạc khát nước, cộng với gói kích cầu của Chính phủ lên đến xấp xỉ 9 tỉ đô la Mỹ vào năm 2009, mọi người, kể cả các doanh nghiệp nhà nước vẫn lao vào cuộc chơi: đầu tư vào địa ốc nhờ mối quan hệ với chính quyền địa phương và làm sân sau cho các ngân hàng thương mại; đầu tư tài chính vào các công ty con, công ty cháu; hùn vốn mở ngân hàng, tiếp tục cho vay vô tội vạ. Khủng hoảng tài chính thế giới bùng phát cùng thời điểm làm tình hình chuyển biến nhanh, sự suy thoái ngày càng hiển hiện.

Hậu quả thì ai cũng rõ: Lạm phát tăng liên tục, đạt đỉnh 28,3% vào tháng 8-2008; nợ xấu bùng phát mà con số chính thức cho đến nay vẫn chưa xác định; các tập đoàn kinh tế nhà nước lớn như Vinashin, Vinalines đổ vỡ; thị trường địa ốc đóng băng, thị trường chứng khoán không hồi phục nổi; hàng loạt doanh nghiệp tư nhân phá sản, ngưng hoạt động. Đau nhất là nhận xét của báo cáo: “Dường như gia nhập WTO chưa mang lại lợi ích đáng kể đối với tăng trưởng xuất khẩu, hoặc doanh nghiệp nước ta chưa tận dụng được đáng kể cơ hội mới từ các nền kinh tế thành viên WTO”. Tổng quát hơn, cũng theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chất lượng tăng trưởng kinh tế giai đoạn năm năm sau WTO giảm sút hơn nhiều so với năm năm trước WTO.

Năm năm tới
 
Lúc nào nhìn lại cũng dễ hơn nhìn tới. Nhưng có một điều có thể đoan chắc, tư cách thành viên WTO không gây ra những điều nói trên: nó chỉ là chất xúc tác, đẩy nhanh quá trình phát triển nếu đi đúng hướng và đẩy nhanh xuống vực suy thoái nếu chọn sai con đường. Thứ hai, chúng ta đang ở giai đoạn giải quyết hậu quả nên chưa thể nói chắc tương lai năm năm sắp tới sẽ như thế nào.

Tuy nhiên một số xu hướng cũng đã dần dần hình thành khá rõ nét: Trong khi khu vực trong nước đang lao đao vì hậu quả chạy theo bong bóng thì khối đầu tư nước ngoài đã có những sự bứt phá ngoạn mục, tiếp tục tận dụng được cơ hội WTO từ phía họ. Dần dà những cam kết của Việt Nam như mở cửa thị trường ngân hàng, tài chính, logistics đã được nhà đầu tư nước ngoài nắm lấy: các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài chiếm thị phần ngày càng lớn; xuất khẩu của doanh nghiệp FDI ngày càng tăng trong khi trong nước lại đang giảm.

Cũng do cam kết giảm thuế nên một số nhà đầu tư nước ngoài từ bỏ việc sản xuất tại Việt Nam cho thị trường Việt Nam (để tận dụng ưu đãi thuế trước đây) mà chuyển sang nhập khẩu (vì chênh lệch thuế không còn đáng kể nữa). Ngược lại cũng một số doanh nghiệp FDI khác chọn Việt Nam làm cơ sở sản xuất cho dây chuyền tiêu thụ toàn cầu của họ, đúng y bài bản của việc tận dụng đúng cách WTO.

Riêng nước ta, cho đến bây giờ vẫn còn loay hoay tìm một chiến lược hậu WTO mà trong nhiều trường hợp lại thất bại. Lấy ví dụ, để chuẩn bị cho việc gia nhập WTO, Việt Nam tham gia Công ước Berne, các nhà xuất bản đã biết mua bản quyền thay vì dịch lậu. Nhưng cũng từ đó mới có chuyện cân nhắc giá rẻ, nhiều nhà xuất bản đã quay sang mua bản quyền từ Trung Quốc. Thế là nảy sinh vấn nạn chất lượng sách, sách in cờ Trung Quốc, sách dạy tiếng Anh mà toàn nói chuyện văn hóa Trung Quốc...
 
Cuộc khủng hoảng vừa qua cũng có mặt tốt của nó khi mỗi doanh nghiệp không còn hào hứng vô căn cứ như ngày xưa nữa, nay phải tự mình thiết kế chiến lược WTO cho mình.

Riêng ở tầm mức vĩ mô, cũng không thể kỳ vọng gì nhiều vì ngay chính đề án tái cơ cấu nền kinh tế vừa mới ban hành cũng đã nhận được nhiều góp ý, đòi sửa lại nhiều điều, thậm chí là viết lại.

Chỉ biết có những bài học từ cuộc khủng hoảng mà cho đến nay tính thời sự vẫn còn nóng hổi. Ví dụ, giảm mức tăng tín dụng là tốt để giới ngân hàng từ từ xử lý những năm tháng nôn nóng cho vay tràn lan, có lúc có ngân hàng cho vay đến 250% vốn huy động. Tại sao cứ khăng khăng đòi ngân hàng phải cho vay ồ ạt, phải tăng tín dụng lên nhanh, phải giảm lãi suất khi tài chính chưa vững?

Hay ví dụ, để tăng xuất khẩu, không chỉ tập trung tìm cách tăng sản lượng mà còn phải nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Thay vì xuất thô titan, hãy đầu tư xây dựng nhà máy chế biến để tăng giá trị hàng xuất khẩu. Công cụ trong tay Nhà nước là thuế, đánh thuế cao nguyên liệu xuất thô và khuyến khích giảm thuế nếu xuất hàng tinh chế. Xét ở góc độ này, câu trả lời nên ứng xử như thế nào với khoáng sản bauxite từng gây nhiều tranh cãi e đã rất rõ - để đó cho con em khai thác và chế biến trong tương lai chứ không xuất thô và gánh chịu lỗ lã như bây giờ.

Có lẽ câu nói của Adam Smith, nhà kinh tế kinh điển nổi tiếng, nay càng thấm thía hơn cả: “Sự thịnh vượng của thế giới không phải được mua bằng vàng hay bạc - nó được tạo ra bởi lao động” - đơn giản vậy thôi.

Nguyễn Vạn Phú

Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online ngày 11/04/2013 truy cập từ http://www.thesaigontimes.vn/Home/xahoi/sukien/94502/Co-hoi-WTO-di-qua-ngon-ngang-o-lai.html.

Gmail: 9 năm, và những cột mốc đáng nhớ

(Dân trí) - Dịch vụ webmail của Google vừa mừng sinh nhật lần thứ 9 kể từ khi ra mắt bản beta đầu tiên vào ngày 1/4/2004.

Kể từ khi được trình làng lần đầu tiên vào ngày 1/4/2004, dịch vụ email trên nền web này của hãng phần mềm khổng lồ Google đã trải qua một chặng đường dài trong suốt gần một thập kỷ vừa qua.
 
Hiện nay, theo ComScore, Gmail trở thành một trong những dịch vụ webmail lớn nhất thế giới, có hơn 425 triệu người dùng trên khắp thế giới tính cho đến tháng 6/2012.
Dưới đây là những điểm mốc đáng nhớ trong lịch sử 9 năm phát triển của Gmail:
Biểu đồ phát triển của Gmail sau 9 năm hoạt động.
Biểu đồ phát triển của Gmail sau 9 năm hoạt động.
1/4/2004: Gmail được chính thức trình làng với phiên bản beta chỉ dành cho những người dùng được mời. Là dịch vụ webmail đầu tiên xây dựng trên nền tảng Ajax, Gmail lúc đó cung cấp dung lượng 1GB cho mỗi người dùng, gấp 20 lần so với các nhà cung cấp dịch vụ email chuẩn.
1/4/2005: Gmail mừng sinh nhật tròn 1 tuổi và nâng dung lượng cho người dùng lên 2GB.
7/2/2006: Gmail cung cấp dịch vụ chat.
10/2/2006: Google giới thiệu ứng dụng “Gmail for your domain” (sau này có mặt trong Google Apps) cho phép các doanh nghiệp và trường học sử dụng Gmail trong tổ chức của họ.
12/4/2006: Dịch vụ Google Calendar ra đời.
1/5/2006: Gmail hỗ trợ thêm nhiều thứ tiếng như Hebrew và Ả rập, nâng tổng số ngôn ngữ lên đến 40.
14/2/2007: Gmail tổ chức mừng ngày Valentine bằng cách cho phép đăng ký mở tài khoản rộng rãi cho mọi người dùng trên thế giới.
31/10/2007: Gmail trở thành một trong những dịch vụ email đầu tiên cung cấp giao thức IMAP miễn phí cho tất cả mọi thiết bị. Người dùng có thể truy xuất Gmail mọi lúc mọi nơi.
15/9/2008: Gmail có thêm tính năng “Forgotten Attachment Detector” giúp thông báo nhắc nhở người dùng gửi tập tin đính kèm.
22/10/2008: Gmail phát hành ứng dụng đầu tiên cho hệ điều hành Android, ra mắt trên mẫu điện thoại T-Mobile G1.
11/11/2008: Người dùng Gmail có thể dịch vụ chat video ngay trong chính hộp thư Inbox của họ.
27/1/2009: Dịch vụ Gmail Offline ra mắt, giúp người dùng có thể truy xuất hộp thư ngay cả khi trên máy bay hay những nơi không có kết nối mạng.
19/3/2009: Google giới thiệu tính năng “Undo Send” trong Gmail, cho phép người dùng có thể lấy lại email nếu thật sự không muốn gửi.
7/7/2009: Gmail chính thức không còn ở phiên bản beta.
30/8/2010: Tính năng “Priority Inbox” giúp người dùng quản lý email dễ dàng hơn.
10/2/2011: Người dùng Gmail được bảo mật hơn nhờ tính năng “2-step verification” miễn phí.
1/11/2011: Gmail cùng một số dịch vụ khác của Google được thiết kế lại với giao diện mới.
16/11/2011: Gmail phát hành phiên bản cho hệ điều hành iOS, giúp người dùng iPhone và iPad có thể kiểm tra Gmail dễ dàng.
24/4/2012: Dung lượng lưu trữ của Gmail được nâng lên 10GB.
28/6/2012: Số lượng người dùng Gmail trên toàn cầu đạt con số 425 triệu.
30/6/2012: Tính năng chat video của Gmail được nâng cấp hỗ trợ lên đến 10 người chat miễn phí cùng lúc với sự ra mắt của dịch vụ Google Hangouts.
19/11/2012: Gmail hỗ trợ tổng cộng đến 57 ngôn ngữ.
27/11/2012: Loại bỏ tính năng đính kèm, Gmail giờ đây cho phép người dùng chèn tập tin vào dịch vụ đám mây Google Drive, hỗ trợ dung lượng lên đến 10GB.
28/3/2013: Người dùng Gmail được trải nghiệm tính năng soạn thư mới trên nền tảng đa nhiệm.
1/4/2013: Gmail tròn 9 tuổi.
Minh Huy

Nguồn: Báo điện tử Dân trí ngày 12/04/2013 truy cập từ http://dantri.com.vn/suc-manh-so/gmail-9-nam-va-nhung-cot-moc-dang-nho-718635.htm.