Thứ Năm, 27 tháng 6, 2013

Biết chấp nhận thăng trầm của cuộc sống

Một vị vua nọ cho gọi người thợ kim hoàn của hoàng cung đến và ra lệnh cho anh ta:

- Hãy làm cho ta một chiếc nhẫn và khắc lên đó một câu nói có thể khiến ta biết kiềm chế niềm vui khi hạnh phúc và phấn chấn khi buồn bã.

Người thợ kim hoàn chẳng gặp khó khăn gì trong việc tạo ra một chiếc nhẫn theo yêu cầu của nhà vua. Thế nhưng, việc tìm ra câu nói như gợi ý của nhà vua quả là nằm ngoài khả năng của anh.

Cuối cùng, người thợ kim hoàn quyết định tìm đến một nhà thông thái và hỏi ý kiến của ông:

- Con nên khắc câu gì lên chiếc nhẫn này để có thể kìm hãm niềm vui của nhà vua khi ngài phấn khích và vực dậy tinh thần khi ngài rầu rĩ?

Nhà thông thái lấy ra một mảnh giấy và viết lên đó: "Việc này rồi cũng sẽ qua."
Khi nhà vua nhìn thấy câu này, ông sẽ biết cách làm chủ cảm xúc của bản thân, cả khi chiến thắng lẫn khi thất bại.

Hãy thử tung một đồng xu lên một trăm lần; bạn sẽ thấy rằng cơ hội đồng tiền sấp và ngửa là gần như bằng nhau. Cuộc sống của chúng ta cũng tương tự như vậy. Thăng trầm là điều hiển nhiên và điều tốt nhất bạn có thể làm là hãy chấp nhận chúng.

Sưu tầm
-------------------------------

DANH NGÔN:

Nếu muốn đi đến thành công, bạn đừng sợ thất bại và đừng tuyệt vọng khi gặp phải điều đó. Quan trọng là sau mỗi lần thất bại, bạn biết cách đứng lên và rẽ qua một con đường khác để đi đến thành công. 

Nguồn: Kho tàng danh ngôn ngày 27/06/2013 truy cập từ http://khotangdanhngon.com/danh-ngon-su-nghiep/danh-ngon-thanh-cong-that-bai#ixzz2XR0KIYVs.

Giá vàng còn 37,5 triệu đồng/lượng, thấp nhất trong hai năm rưỡi

TTO - Sau đợt lao dốc sáng nay, đà giảm của giá vàng được tiếp nối trong suốt buổi chiều. Đà giảm của giá vàng càng lúc càng mạnh. Đến 18g ngày 26-6, giá vàng thế giới chỉ còn 1.229 USD/ounce, tương đương 31,17 triệu đồng/lượng.
 

Giá vàng tuột dốc không phanh ngày 26-6. Ảnh minh họa: Thanh Đạm

                 

Như vậy, chỉ trong ngày hôm nay giá vàng thế giới đã mất tổng cộng 48 USD/ounce (gần 1,21 triệu đồng/lượng).
 
Đà giảm của giá vàng thế giới kéo giá vàng trong nước xuống hết đáy này đến đáy khác. Kết thúc phiên giao dịch buổi sáng, giá bán vàng miếng SJC ở mức 38,15 triệu đồng/lượng, nhưng từ sau 14g giá vàng rụng dần, lúc 15g chỉ còn 37,85 triệu đồng/lượng. Đến cuối ngày giá bán vàng miếng SJC chỉ còn 37,5 triệu đồng/lượng. So với cuối ngày 25-6, giá vàng đã bốc hơi 1,17 triệu đồng/lượng, rơi xuống mức thấp nhất kể từ tháng 2-2011.
 
Việc giá vàng giảm quá mạnh cũng khiến nhiều người giữ vàng lo sợ. Từ xu hướng mua chủ đạo vào buổi sáng, buổi chiều khi giá vàng trong nước tiếp tục lao dốc mạnh, nhiều người đã bán ra cắt lỗ. Ông Nguyễn Công Tường, phó phòng kinh doanh sỉ Công ty SJC, cho biết lực bán mạnh lên vào cuối giờ chiều khiến tốc độ giảm của giá vàng càng mạnh thêm.
 
Trong khi đó giới phân tích tìm mọi lý do để lý giải cho cú lao dốc của vàng. Nhiều ý kiến cho rằng giá vàng giảm mạnh do chịu ảnh hưởng bởi thông tin khan hiếm tiền mặt trong hệ thống ngân hàng tại Trung Quốc. Số khác cho rằng kinh tế Mỹ phục hồi nhanh hơn dự kiến khiến quan ngại về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) thu hẹp gói kích thích kinh tế đang rõ nét hơn bao giờ hết.
 
Sáng mai 27-6, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục đấu thầu thêm 1 tấn vàng với giá tham chiếu để đặt cọc là 37,7 triệu đồng/lượng. Đến nay Ngân hàng Nhà nước để ngỏ khả năng có tiếp tục đấu thầu hay không sau khi các ngân hàng hoàn thành việc tất toán trạng thái vào ngày 30-6.


Hà Nội: cháy vàng miếng SJC
Chiều ngày 26-6, tại các cửa hàng vàng ở Hà Nội, khách ùn đến mua vàng khiến nhiều cửa hàng cháy vàng miếng SJC tạm thời. Bà Đỗ ở Nghĩa Tân cho biết "chưa bao giờ có thể nghĩ giá vàng xuống tới 37 triệu đồng/ lượng như chiều nay". Bà chỉ mua có 3 lượng vàng nhưng đợi 15 phút mà cửa hàng vàng của Bảo Tín Minh Châu ở Trần Nhân Tông vẫn chưa có hàng. Thế nên bà đành phải đến cửa hàng vàng của công ty vàng bạc SJC Hà Nội.
Đại diện trung tâm nghiên cứu và khảo sát thị trường Công ty vàng bạc Bảo Tín Minh Châu cho biết chiều 26-6 có những lúc cửa hàng tạm hết vàng miếng SJC chỉ trong 10-15 phút và chờ điều chuyển chứ không có chuyện cạn hàng. Đây cũng là tình trạng chung của các cửa hàng vàng trên thị trường.
Ghi nhận tại cửa hàng vàng trên phố Trần Nhân Tông, cửa hàng vàng công ty SJC chi nhánh Hà Nội ở phố Giang Văn Minh, khách xếp hàng tham khảo giá và mua vàng kah1 đông trong phiên giao dịch cuối ngày. Giá vàng SJC chốt phiên giao dịch hôm nay được công ty SJC niêm yết mức mua vào là 37, 150 triệu đồng/ lượng và bán ra là 37,520 triệu đồng/ lượng. Tuy nhiên, chênh lệch giữa vàng trong và ngoài nước vẫn duy trì ở mức kỷ lục là 6,4 - 6,5 triệu đồng/ lượng.
L.THANH

A.H.
 

Thứ Hai, 17 tháng 6, 2013

Chiến sự khốc liệt… bột giặt và bài học cạnh tranh

SGTT.VN - Sau cuộc chiến giành thị phần khốc liệt giữa Omo, Tide vào những năm đầu thập niên 2000 thị trường bột giặt Việt Nam khá “yên bình”, thì nay bỗng nổi sóng đùng đùng với ba “đấu thủ” đang ở thế chân vạc: Omo, Ariel và Aba.
Với doanh số ước tính vào khoảng 600 – 650 triệu đôla một năm, tốc độ tăng trưởng bình quân trên dưới 10%, thị trường bột giặt Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng lớn. Mấy năm qua, Unilever chiếm thị phần cao nhất với các nhãn hiệu Omo, Viso, Surf (ba nhãn hiệu này giới chuyên môn đánh giá, chiếm hơn một nửa thị trường cả nước), phần còn lại thuộc về P&G với Tide, cùng các nhãn hàng nội địa khác ở phân khúc giá bình dân như Lix, Vì Dân, Net…


Bỗng dưng sôi động
 
Kể từ năm 2012, thị trường chứng kiến sự xuất hiện của nhãn hiệu Aba của công ty Đại Việt Hương. Aba tạo ra cú sốc thú vị khiến toàn bộ ngành hàng bột giặt sôi động là vì cách định giá (cũng có nghĩa cách chọn chiến lược cạnh tranh). Không giống như các nhãn hiệu nội địa Lix, Vì Dân, Net luôn chọn phân khúc giá thấp để “trú ẩn”, tránh đối đầu trực diện với “người khổng lồ” Unilever, thì Aba lại làm bất ngờ tất cả khi định giá gần tương đương với Omo (nằm ở phân khúc giá top đầu thị trường, cũng là nhãn hàng có thị phần cao nhất). Chọn thị trường “dễ thay đổi” là đồng bằng sông Cửu Long làm đại bản doanh tung hàng, Aba đã có sự khởi đầu khá ấn tượng, từng bước chiếm được cảm tình người tiêu dùng với bao bì, chất lượng sản phẩm khuyến mãi… khá tốt. Tại nhiều khu vực đã có lúc Aba cạnh tranh “sòng phẳng” với Omo, Viso, Surf, vượt qua nhiều nhãn hiệu nội địa khác chỉ sau hơn một năm góp mặt.
 
P&G cũng không đứng ngoài cuộc, sau gần hai năm tung nước giặt nhãn hiệu Ariel khá thành công, đã thừa thắng xông lên, tung tiếp bột giặt Ariel, định vị cạnh tranh trực tiếp với Omo. Có lẽ do rút kinh nghiệm thất bại từ Tide trước đây, vốn dĩ bị định vị ở phân khúc thấp hơn (được xem là sánh ngang với Viso của Unilever), lần tung hàng này, P&G đã chuẩn bị hết sức công phu cho Ariel “bằng vai phải lứa” với Omo. Kể từ đầu năm 2013, thị trường hình thành nên thế chân vạc gồm Unilever (với Omo, Viso, Surf), P&G (với Ariel, Tide), Đại Việt Hương (với Aba).
 
Khốc liệt cuộc chiến trade marketing
 
Với vai trò là người đi “giành giật” thị phần của Omo, Aba và Ariel đã có những cách tiếp cận thị trường khác nhau. Độc đáo nhất phải nói đến Aba với chiến lược giá ngang ngửa Omo. Theo dõi cuộc chiến suốt mấy tháng gần đây, chuyên gia của trung tâm LSA thấy Đại Việt Hương tuy “liều lĩnh” nhưng đầy tự tin và khôn ngoan. Việc định giá rất sát Omo đã mang lại cho Aba một mức lợi nhuận biên lớn. Tính toán kỹ, Aba dùng chính phần lợi nhuận cao này để tái đầu tư ra thị trường, gia tăng sức mạnh cạnh tranh của hệ thống phân phối. Aba đã thực hiện hàng loạt chương trình trade marketing khủng để “bơm” hàng ra thị trường một cách ấn tượng, gây bất ngờ cho các đối thủ cạnh tranh. Đã có những lúc để chiếm không gian điểm bán lẻ, Aba áp dụng tỷ lệ chiết khấu trên 10%, thậm chí có lúc lên đến gần 20%, điều hầu như chưa bao giờ xảy ra trên thị trường bột giặt từ trước đến nay. Không chỉ vậy, Đại Việt Hương đã tổ chức lại hệ thống bán lẻ, tuyển thêm nhân viên, thay đổi cách thức bán hàng để phục vụ cho mục tiêu cạnh tranh đường dài. Bằng cách tiếp cận mang tính hệ thống, được thiết kế bài bản, phối hợp nhiều phương pháp đã giúp cho Aba trở thành nhãn hiệu bột giặt nội địa thành công nhất năm 2012 – 2013.
 
Nói đến Ariel, họ không “liều lĩnh” như Aba mà theo cách một chuyên gia marketing có truyền thống. P&G đã tung ra một chương trình marketing lớn nhất trong nhiều năm của họ tại Việt Nam để hỗ trợ cho Ariel. Thể hiện cụ thể là đầu tư từ khâu thiết kế thông điệp quảng cáo, chi tiền khủng cho các phương tiện truyền thông, mời các ngôi sao giải trí làm đại sứ thương hiệu… đến việc tổ chức các sự kiện cho người tiêu dùng. Không né tránh, họ đánh thẳng vào lãnh địa tưởng “bất khả xâm phạm” của Omo. Chiến sự trên thị trường nửa đầu năm nay cho thấy, Aba và Ariel đã và đang chuẩn bị cho cuộc chiến dài hơi.
 
Unilever ứng biến ra sao? Unilever đang tiếp tục đẩy các chiến dịch quảng cáo rầm rộ cho người tiêu dùng và qua thăm dò người bán lẻ, chúng tôi thấy họ đang xắn tay áo trong cuộc chiến trade marketing, có lẽ họ phải làm cho được hai việc: thứ nhất, hạn chế tối đa sự có mặt của đối thủ tại các điểm bán lẻ, thứ hai luôn duy trì mức tồn kho các sản phẩm đầy đủ tại các cửa hàng bán lẻ khắp thị trường. Bên kia, Aba, Ariel cũng như các nhãn hàng nội địa khác cũng phải nỗ lực duy trì độ bao phủ thị trường, đảm bảo hàng hoá đầy đủ tại nhiều điểm bán, bố trí đội ngũ bán hàng tốt, duy trì dịch vụ bán hàng cạnh tranh. Kiên trì, bài bản, khôn ngoan sẽ là ba từ thường xuyên họ đang “tụng niệm”.
 
Trần Chí Trường

Nguồn: BÁO ĐIỆN TỬ SÀI GÒN TIẾP THỊ MEDIA ngày 17/06/2013 truy cập từ http://sgtt.vn/Tieu-dung/178677/Chien-su-khoc-liet…-bot-giat-va-bai-hoc-canh-tranh.html.

Thứ Năm, 13 tháng 6, 2013

Ước Gì




Nguồn: GOSONG.NET, đoạn phim truy cập từ http://gosong.net/download/GWf4jUKXM6I/M%E1%BB%B9_T%C3%A2m_-_%C6%AF%E1%BB%9Bc_G%C3%AC.html ngày 13/06/2013.

Lời bài hát Ước Gì của Võ Thiện Thanh:

Em đã sống những đêm trời có ánh trăng chiếu vàng
Em đã sống những đêm ngoài kia biển ru bờ cát

ước gì anh ở đây giờ này
ước gì anh cùng em chuyện trò
cùng nhau nghe sóng xô ghềnh đá ngàn câu hát yên bình
em đã biết cô đơn là thế mỗi khi cách xa anh
từng đàn chim cuối chân trời biếc tìm nơi bình yên
ước gì anh ở đây giờ này
ước gì em được nghe giọng cười và hơi ấm đã bao ngày qua mình luôn sát vai kề
em xa anh đã bao ngày rồi nghe như tháng năm ngừng trôi
đi xa em nhớ anh thật nhiều này người người yêu anh hỡi

ước gì em đã không lỡ lời
ước gì ta đừng có giận hờn
để giờ đây cô đơn vắng tênh đời em đã mất anh rồi
ước gì cho thời gian trở lại
ước gì em gặp anh một lần
em sẽ nói em luôn nhớ anh và em chỉ có anh thôi


em đã sống những đêm trời có ánh trăng chiếu vàng
em đã sống những đêm ngoài kia biển ru bờ cát
ước gì anh ở đây giờ này
ước gì anh cùng em chuyện trò
cùng nhau nghe sóng xô ghềnh đá ngàn câu hát yên bình
em đã biết cô đơn là thế mỗi khi cách xa anh
từng đàn chim cuối chân trời biếc tìm nơi bình yên

ước gì anh ở đây giờ này
ước gì em được nghe giọng cười và hơi ấm đã bao ngày qua mình luôn sát vai kề
em xa anh đã bao ngày rồi nghe như tháng năm ngừng trôi
đi xa em nhớ anh thật nhiều này người người yêu anh hỡi

ước gì em đã không lỡ lời
ước gì ta đừng có giận hờn để giờ đây cô đơn vắng tênh đời em đã mất anh rồi
ước gì cho thời gian trờ lại
ước gì em gặp anh một lần em sẽ nói em luôn nhớ anh và em chỉ có anh thôi

ước gì cho thời gian trở lại ( trở lại)
(ước gì em gặp anh một lần
em sẽ nói em luôn nhớ anh và em chỉ có anh thôi )
ước gì em đã không lỡ lời
ước gì ta đừng có giận hờn
để giờ đây cô đơn vắng tênh đời em đã mất anh rồi
ước gì cho thời gian trở lại
ước gì em gặp anh một lần em sẽ nói em luôn nhớ anh và em chỉ có anh thôi . 


Sáng tác: Võ Thiện Thanh

Tên thật: Phan Thị Mỹ Tâm
Ngày sinh: 16/01
Quốc gia: Việt Nam
Công ty đại diện: MT Entertainment
Mỹ Tâm từng tốt nghiệp thủ khoa trung cấp Nhạc viện khoa thanh nhạc.
Nguồn: Zing, truy cập từ http://mp3.zing.vn/bai-hat/Uoc-Gi-My-Tam/ZW6OWZZZ.html ngày 13/06/2013.

Tiểu sử của Mỹ Tâm


  • Tên thật: Phan Thị Mỹ Tâm
  • Ngày sinh: 16/01/1981
  • Thể loại: Việt Nam, Nhạc Trẻ
  • Quốc Gia: Việt Nam
Thông tin chi tiết

Mỹ Tâm từng tốt nghiệp thủ khoa trung cấp Nhạc viện khoa thanh nhạc.

- Đã sáng tác: Mãi yêu, Nụ Hôn Bất Ngờ, Vì Đâu, Nhớ, Nhịp Đập Dại Khờ, Dường Như Ta Đã, Tình Yêu Chưa Nói, Như Em Đợi Anh, Khi Tình Yêu Trở Lại, Vũ Điệu France Cho Anh, Ngày Anh Ra Đi, ĐỢi Yêu, Cho Một Tình Yêu, Xin Lỗi, Không Yêu Không Yêu

Vào hệ Trung cấp Nhạc viện, khoa Thanh nhạc, Mỹ Tâm được học trực tiếp với thầy Quốc Trụ, một giảng viên uy tín.

Quãng thời gian 1997 - 1998, Mỹ Tâm tham gia liên tiếp những hội diễn văn nghệ, các cuộc thi giọng hát hay của quận, của thành phố. Tháng 4 năm 1998, Mỹ Tâm đoạt giải nhất gần như đồng thời ở hai hội thi đơn ca quận Tân Bình và quận 6. Tháng 11 năm ấy, giải nhất Giọng ca vàng báo Mực Tím lại đến với Tâm.

Tháng giêng năm 1999, Mỹ Tâm trở thành ca sĩ độc quyền của Vafaco. Bản thu âm đầu tiên của Tâm được thực hiện dưới sự chỉ đạo của nhạc sĩ Nguyễn Hà. Ca khúc Nhé anh vừa là bài tập thu thanh đầu đời vừa là bài hát khắc dấu một Mỹ Tâm dồi dào ấn tượng, giàu nội lực và phong phú về sức bật. Nhạc sĩ Nguyễn Hà đã hướng dẫn Mỹ Tâm nhiều nguyên tắc quan trọng trong chuyên môn, đã hình thành ý thức chuyên nghiệp cho cô một cách hiệu quả.

Giữa năm 2000, vừa hết hợp đồng làm việc với Vafaco, Tâm ôm ấp nhiều mộng ước, nhiều dự án độc lập. Cũng trong thời điểm này, Mỹ Tâm đã viết ca khúc đầu tay của mình, đặt tên là Mãi yêu. Quá trình sáng tác có sự trợ lực của nhạc sĩ Nguyễn Quang, chỉ huy ban nhạc Trung tâm Ca nhạc nhẹ.

Mỹ Tâm đã đem bài hát này, cùng với I love you (cover lại ca khúc Celine Dion) vào phần thi của mình trong Liên hoan giọng ca vàng châu Á (Thượng Hải, Trung Quốc) và cô đã đoạt Huy chương đồng.

Tháng 6/2001, Mỹ Tâm tốt nghiệp Trung cấp trường Nhạc với số điểm thủ khoa. Và công chúng đã bắt đầu nhắc nhiều đến To love you more, Nhé anh, Yêu dại khờ, Mãi yêu và đặc biệt là Tóc nâu môi trầm như những thành công của riêng Tâm.

Từ năm 2002 trở đi, hàng loạt hit gắn liền với cái tên Mỹ Tâm như: Ước Gì, Họa Mi Tóc Nâu, Tình Lỡ Cách Xa, Tình Em Còn Mãi, Nụ Hôn Bất Ngờ, Nhớ, Dường Như Ta Đã,... đưa Mỹ Tâm lên vị trí nữ ca sĩ được yêu thích nhất.

Năm 2006, Mỹ Tâm hợp tác cùng ekip Hàn Quốc thực hiện album Vol.5 mang tên "Vút Bay" đạt chất lượng quốc tế với mức đầu tư ước tính hơn 100.000 USD. Các ca khúc được yêu thích trong album như: Bí Mật, Tình Yêu Chưa Nói, Giọt Sương,...

2007, Mỹ Tâm ra mắt công ty của riêng mình mang tên MT Entertainment cho chính cô làm giám đốc. Cùng trong năm này, Mỹ Tâm cho ra mắt sản phẩm nước hoa của mình mang tên My Time.

Tháng 04/2008, Mỹ Tâm công bố dự án Thời Gian Và Tôi và album "Trở Lại" mở đường nhận được nhiều ý kiến khen chê khác nhau. Đến tháng 07, Mỹ Tâm cho phát hành album Vol.7 mang tên "Nhịp Đập" (To The Beat), đây là bước thứ 2 trong dự án Thời Gian Và Tôi.

09/2008, Mỹ Tâm Live Concert Tour mang tên "Sóng Đa Tần" được mở đầu tại Tp.HCM dưới trời mưa tầm tã, nhưng không vì thế mà Mỹ Tâm không hát. Các buổi diễn sau đấy ở Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ,... đều diễn ra suôn sẽ.

Mỹ Tâm Foundation là quỹ từ thiện mà Mỹ Tâm Entertainment cùng với các Fan của cô lập nên nhằm giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn, các em nhỏ mồ côi,... Hành động tích cực của Mỹ Tâm nhận được nhiều thiện cảm từ khán giả và nhất là mới đây chương trình từ thiện mang tên "Nâng Bước Ngày Mai" được Mỹ Tâm thực hiện rất thành công tại 2 nơi: Tp.HCM và Đà Nẵng, giúp đỡ những nạn nhân của trận bão vừa xảy ra không lâu tại Miền Trung - quê hương của Mỹ Tâm.

09/2009, Mỹ Tâm bị cuốn vào tin đồn với nhạc sĩ Hà Dũng. Với thái độ dứt khoát, Mỹ Tâm phản bác tất cả những tuyên bố được Mỹ Tâm cho là không có thật.

Hiện tại Mỹ Tâm đang thu âm cho album mới.

Album đã phát hành

- 2001: CD Vol.1 Mãi yêu (tháng 5)
- 2002: CD Single Cây đàn sinh viên (tháng 3), CD Single Hát với dòng sông (tháng 5), CD Single Ban mai tình yêu (tháng 5), CD Vol.2 Đâu chỉ riêng em (tháng 11)
- 2003: CD Vol.3 Ngày ấy & Bây giờ- Yesterday & Now (tháng 6), VCD Mãi yêu (tháng 7)
- 2004: VCD-DVD liveshow Ngày ấy & Bây giờ (tháng 8), VCD karaoke liveshow Ngày ấy & Bây giờ (tháng 12)
- 2005: CD Vol.4 Hoàng hôn thức giấc- The color of my life (tháng 4)
- 2006: VCD-DVD liveshow Sức mạnh của những ước mơ, CD Vol.4,5 Dường như ta đã (tháng 2), CD Vol.5 Vút bay- FLy (tháng 12)
- 2008: CD Vol.6 Trở lại (tháng 4), CD Vol.7 Nhịp đập- To the beat (tháng 9)
- 2009: DVD live tour concert Sóng đa tần (tháng 4)
- 12/2010: CD Single Cho một tình yêu (bộ phim cùng tên)
- 2011: Tháng 6/2011 phát hành DVD liveshow Kỷ niệm 10 năm ca hát Melodies of time (tháng 1 &3)

Liveshow đã thực hiện

- 2011: Tổ chứ liveshow "10 Years Anniversary - Melodies of Time" tại tp. HCM (14/01/2011) và tại Hà Nội (16/03/2011) nằm trong dự án Những giai điệu của thời gian.
- 2001: "Cùng Sunsilk tỏa sáng ước mơ" tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng
- 2004: "Yesterday & Now" tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội với mức kinh phí đầu tư 3 tỉ, mức kinh phí lớn nhất tại thời điểm đó (tháng 3 và 4). "Quê hương tuổi thơ tôi" nằm trong chuỗi chương trình "Âm nhạc và những người bạn" do Đài truyền hình Việt Nam- VTV3 tổ chức tại quê nhà Đà Nẵng của Mỹ Tâm (tháng 9). "Sống hết mình" tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội (tháng 12)
- 2005: "Sức mạnh của những ước mơ" tại một số trường đại học ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Đà Lạt và Cần Thơ. Chương trình được tổ chức miễn phí dành cho sinh viên (tháng 9 - 10)
- 2008: "Sóng đa tần" tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Cần thơ nằm trong dự án "Thời gian và tôi" (tháng 9 - 10)

Giải thưởng

- Giải A "Liên hoan tiếng hát Miền Trung và Tây Nguyên" năm 1996
- Giải nhất đơn ca "Xuân 1997" toàn thành phố Đà Nẵng năm 1997
- Huy chương Vàng giọng hát hay Xuân 1997
- Giải nhất cuộc thi "Giọng ca hay Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh năm 1998"
- Giải nhất cuộc thi "Giọng ca hay Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh năm 1998"
- Giải nhất cuộc thi "Giọng ca vàng báo Mực Tím 1998"
- Giải nhất "Hội diễn văn nghệ ngành Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh 1999 - 2000"
- Huy chương Đồng "Liên hoan âm nhạc Châu Á" tại Thượng Hải, Trung Quốc năm 2000
- Đài truyền hình Việt Nam bình chọn là "Nhân vật tiêu biểu trong năm 2001"
- "Top 5 ca sĩ triển vọng - Giải thưởng âm nhạc Hoa Học Trò lần I" do bạn đọc báo Hoa Học Trò bình chọn năm 2001
- "Gương mặt được yêu thích năm 2002" của Câu Lạc Bộ Bạn Trẻ Chiều Thứ 5 - Nhà Hát Bến Thành
- Tạp chí Đẹp bình chọn là "Ca sĩ Trẻ tài năng" các năm 2002, 2003
- Giải Mai Vàng các năm: 2002, 2003 và 2008 do báo Người Lao Động tổ chức bình chọn
- "Ca sĩ được yêu thích nhất trong năm" của chương trình "Làn Sóng Xanh" do Đài Tiếng Nói Nhân Dân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức bình chọn từ 2002 đến 2008.
- Giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" của chương trình VTV Bài Hát Tôi Yêu lần I năm 2002
- Giải "Videoclip được khán giả yêu thích nhất" của chương trình VTV Bài Hát Tôi Yêu lần II năm 2003
- Giải "Videoclip do Hội đồng Nghệ thuật bình chọn" của chương trình VTV Bài Hát Tôi Yêu lần II năm 2003
- Giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" do Vietnamnet bình chọn năm 2003
- Giải thưởng nghệ sĩ ăn mặc đẹp nhất do viện mẫu Fadin bình chọn năm 2003
- Giải thưởng Trái Tim Việt Nam 2003
- Giải "Ngôi Sao Bạch Kim - Nữ ca sĩ được yêu thích nhất năm 2003" của báo Màn Ảnh Sân Khấu tổ chức bình chọn
- Cúp vàng "Vì sự phát triển cộng đồng" năm 2004 của Công ty Văn Hóa Hà Nội và Báo Cộng Đồng bình chọn
- Giải thưởng "Lá Phong" do Tổng Lãnh Sự Canada trao tặng.
- Giải Hoa Hồng Vàng do khán giả kênh truyền hình VTC bình chọn 2006
- Giải ca sĩ và giải nhạc sĩ được yêu thích nhất trong năm 2006 của chương trình Làn Sóng Xanh
- Đoạt giải Ngôi Sao Bạch Kim 2006:"Nữ ca sĩ có giọng hát xuất sắc nhất"
- Đoạt giải thưởng HTV Award của Đài truyền hình TP.HCM - giải nữ ca sĩ được yêu thích nhất năm 2006 và 2007
- Đoạt giải Ca Sĩ Được Yêu Thích Nhất 10 Năm Làn Sóng Xanh
- Giải Cống Hiến của năm cho Ca Sĩ của năm do báo Thể thao và Văn hóa tổ chức năm 2008.

Nguồn: Zing, truy cập từ http://mp3.zing.vn/nghe-si/My-Tam/tieu-su ngày 13/06/02013.


 

Thứ Tư, 5 tháng 6, 2013

Vì sao người Việt Nam “sùng bái vàng”?

Ngân hàng Standard Chartered lý giải vì sao nhu cầu vàng Việt Nam thuộc hàng lớn nhất thế giới...

Vì sao người Việt Nam “sùng bái vàng”?
Theo Standard Chartered, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đang gặp phải thách thức trong việc giảm thiểu những tác động tiêu cực của việc nắm giữ vàng với số lượng lớn lên nền kinh tế.

Hôm nay (5/6), bộ phận nghiên cứu toàn cầu của Ngân hàng Standard Chartered công bố bản báo cáo về thị trường vàng Việt Nam với tựa đề: “Việt Nam - Sùng bái vàng”.Tựa đề đó được dẫn chứng ở những số liệu và đánh giá đáng chú ý.

Cụ thể, Việt Nam là quốc gia tiêu thụ vàng lớn thứ 4 tại châu Á sau Ấn Độ, Trung Quốc và Thái Lan. Điểm đặc biệt ở Việt Nam đó là vàng, USD và tiền đồng đều được sử dụng rộng rãi như tiền tệ. Vàng vừa được dùng như một loại tiền, vừa như một phương tiện cất giữ, trong một số trường hợp, vàng thậm chí còn được coi trọng hơn cả tiền giấy.

Trong suốt quá trình lịch sử, vàng luôn có một sức hấp dẫn đặc biệt với người Việt Nam, được sử dụng rộng rãi cho mục đích đầu tư và là phương thức thanh toán thay thế tiền mặt trong những giao dịch lớn. Trong những năm gần đây, vàng còn được sử dụng như một biện pháp chống lại lạm phát và suy thoái kinh tế thế giới.

Theo Ngân hàng Standard Chartered, nguyên nhân khiến nhu cầu vàng tại Việt Nam ở mức cao trước hết là từ yếu tố văn hóa. Nhiều người coi vàng là một phương tiện tích lũy đáng tin cậy và vẫn tiếp tục mua vào dù giá cả bất ổn.


Qua khảo sát với những người trong cuộc, bộ phận nghiên cứu của Ngân hàng Standard Chartered cho rằng, phần lớn người dân Việt Nam giữ vàng miếng và trang sức bằng vàng tại nhà, chỉ một lượng vàng nhỏ được gửi tại ngân hàng. Còn theo ước tính của Hiệp hội Vàng thế giới, tổng lượng vàng tích trữ tại Việt Nam hiện đạt khoảng 1.000 tấn, tương đương 45% GDP, trong khi đó, tại đa số các nước khác trên thế giới, tỷ lệ này chỉ đạt dưới 3% GDP.

Thứ hai, lạm phát quá nhanh trong những năm gần đây đã khiến người Việt lao vào giữ vàng. Chỉ trong vòng 5 năm, Việt Nam đã phải đối mặt với hai đợt lạm phát cao. Tỷ lệ lạm phát đạt đỉnh 23% vào tháng 8/2011, và Việt Nam đã phải mất gần một năm để đưa tỷ lệ này xuống dưới 10%. Nắm giữ vàng như hầm trú ẩn an toàn trước những rủi ro lạm phát và tác động do sức mua sụt giảm được coi là một biện pháp hữu hiệu để bảo vệ tài sản. Cũng có chung nhận định như vậy, những người sở hữu đất trước đây thường định giá đất bằng vàng (song song với VND) nhằm tránh tình trạng mất giá.

Một nguyên nhân khác được Ngân hàng Standard Chartered nhấn mạnh là do thiếu niềm tin vào đồng nội tệ, người Việt trở nên ưa chuộng vàng và USD. Kể từ cuối năm 2008, tiền đồng đã bị mất giá 23% do áp lực lạm phát và nền kinh tế có vị thế yếu trên trường quốc tế. Điều này đã là suy giảm niềm tin và nhu cầu đối với đồng nội tệ, dẫn đến tiền đồng đã yếu càng trở nên yếu hơn. Bài học mà người Việt rút ra được từ giai đoạn khắc nghiệt này đó là nên nắm giữ các loại “tiền tệ mạnh”, như vàng và USD.

“Những yếu tố này đã khiến cho nhu cầu vàng của Việt Nam cao nhất thế giới”, bản báo cáo kết luận.

Với thực tế trên, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước gặp phải thách thức trong việc giảm thiểu những tác động tiêu cực của việc nắm giữ vàng với số lượng lớn lên nền kinh tế. Và vàng đã tạo nên nhiều rủi ro.

Đó là khi niềm tin đặt vào vàng và USD cao hơn so với tiền đồng đã làm suy yếu vai trò của đồng nội tệ và dẫn đến những rủi ro đối với hệ thống kinh tế Việt Nam. “Theo chúng tôi, những thách thức lớn nhất mà Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đang phải đối mặt đó là làm giảm vai trò của vàng và USD trong các giao dịch nội địa cũng như vai trò của một phương tiện tích trữ và khuyến khích sử dụng tiền đồng như một loại tiền tệ chính. Cần thiết phải có một đồng nội tệ mạnh để hỗ trợ kiềm chế lạm phát và tăng cường niềm tin đối với nền kinh tế”, bản báo cáo đưa ra nhận định.

Bên cạnh đó, sự chênh lệch giữa giá vàng trong nước và quốc tế đã gây ra tình trạng đầu cơ, buôn lậu vàng và hình thành nên một thị trường “chợ đen”… khiến giá vàng nội địa tăng cao và gây bất ổn kinh tế.

Một rủi ro nữa từ vàng được nhìn nhận ở những tác động tiêu cực lên cán cân thương mại và tỷ giá.

Dẫn nguồn từ Ngân hàng Nhà nước, báo cáo của Ngân hàng Standard Chartered cho biết Việt Nam nhập khẩu khoảng 100 tấn vàng (tương đương 4,4 tỷ USD) mỗi năm, chiếm 5% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước. Nhập khẩu vàng được cho là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhập siêu và suy yếu cán cân thanh toán trong những năm gần đây, từ đó đặt áp lực mất giá lên tiền đồng. Kể từ năm 2009, các nhà chức trách đã 5 lần hạ giá đồng nội tệ trong bối cảnh cán cân thanh toán suy giảm và lạm phát tăng cao.


Để hạ nhiệt các cơn sốt vàng, hạn chế những tác động của nó đối với kinh tế vĩ mô, từ năm 2008 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã lần lượt đưa ra nhiều giải pháp, như hạn chế lượng cung qua giới hạn nhập khẩu, kiểm soát rồi ngừng huy động và cho vay vàng; và gần đây là việc triển khai Nghị định 24 với độc quyền xuất nhập khẩu và sản xuất vàng miếng, tổ chức đấu thầu…

Tuy nhiên, bộ phận nghiên cứu của Ngân hàng Standard Chartered vẫn quan ngại về tính hiệu quả của những biện pháp được áp dụng gần đây.

Đó là lượng cung vàng nội địa vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu, thể hiện qua việc khoảng cách chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới tiếp tục duy trì ở mức cao. Do nguồn cung không đủ và tâm lý ưa chuộng vàng của người tiêu dùng, giá vàng nội địa trong những năm gần đây luôn cao hơn giá vàng quốc tế.

“Theo ước tính của chúng tôi, kể từ phiên đấu thầu đầu tiên của Ngân hàng Nhà nước, mức chênh lệch giữa giá vàng trong nước và quốc tế đạt trung bình 250 USD/oz, cao hơn 30% so với thời điểm trước đó. Trong khi đó, sự chênh lệch này tại các nước khác chỉ khoảng 1-10 USD/oz”, bản báo cáo đưa ra số liệu so sánh.

Mặt khác, hiện Ngân hàng Nhà nước đang dùng vàng dự trữ ngoại hối để đấu thầu, đồng thời nhập khẩu một lượng vàng tương đương để duy trì dự trữ ngoại hối. Quan ngại đưa ra trong bản báo cáo là, điều này rốt cuộc lại làm giảm dự trữ ngoại hối do các ngân hàng trong nước chỉ có thể dùng VND để mua vàng từ Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, điều này còn đặt áp lực giảm giá lên tiền đồng.

“Các biện pháp hiện hành sẽ chỉ có tác động đến thị trường trong ngắn hạn. Thúc đẩy sự ổn định của nền kinh tế, cải thiện niềm tin vào tiền đồng và làm giảm nhu cầu về vàng sẽ đóng vai trò quan trọng nhằm bình ổn thị trường vàng nội địa trong dài hạn”, báo cáo của Ngân hàng Standard Chartered đưa ra khuyến nghị.


KHÁNH HÒA
Nguồn: VN Economy ngày 05/06/2013, truy cập từ http://vneconomy.vn/20130605035149933P0C6/vi-sao-nguoi-viet-nam-sung-bai-vang.htm.

Thứ Hai, 3 tháng 6, 2013

Mở cuốn sách bí mật sự sống

TTCT - Cuộc đua tìm kiếm cấu trúc của ADN đầu những năm 1950 diễn ra ít nhất giữa bốn nhóm nghiên cứu tại các trường đại học nổi tiếng, đó là Linus Pauling ở Viện Công nghệ California, Maurice Wilkins và Rosalind Franklin ở Đại học King’s College London, James D. Watson cùng Francis Crick ở phòng thí nghiệm Cavendish, Đại học Cambridge.
 
Rất nhiều ứng dụng trong y sinh học xuất phát từ khám phá ADN - Ảnh: Science Daily

Đại cao thủ từ nước Mỹ
 
Trước đó, nhà hóa học danh tiếng Linus Pauling, giải Nobel hóa học năm 1954 và Nobel hòa bình năm 1962 (người duy nhất được hai giải Nobel nguyên vẹn cho đến nay), đã vượt lên nhóm các nhà khoa học ở Cambridge khi khám phá ra một số phân tử protein có cấu trúc xoắn.
 
Khi Pauling gửi đăng một bài báo khoa học để xuất bản vào đầu năm 1953, trong đó ông cho rằng cấu trúc của ADN là xoắn ba (có thể hình dung sơ bộ như kiểu bện thừng hay tóc tết đuôi sam) thì trưởng phòng thí nghiệm Cavendish đã thấy được sự cấp bách nên cho phép Watson và Crick được dành toàn thời gian để nghiên cứu cấu trúc ADN.
 
Trong giả thiết của Pauling, ADN không chỉ có cấu trúc xoắn ba, mà các bazơ còn hướng ra ngoài. Điều này không chính xác, như sẽ thấy sau này. Nhưng rõ ràng Pauling đã rất gần đích đến. Với trí tuệ siêu việt, chắc chắn Pauling sẽ nhìn ra sai sót của mình để hiệu chỉnh. Watson và Crick biết rất rõ điều này và ước tính Pauling sẽ chỉ cần sáu tuần để hoàn thành việc đó. Vì thế, họ phải chạy nếu muốn vượt lên, phần vì nhìn thấy sự quá gấp gáp của cuộc đua tranh, phần vì viễn cảnh chiến thắng nhà bác học nổi tiếng là vô cùng hấp dẫn.
 
Điều bất lợi lớn của Pauling là ông không có các dữ liệu về nhiễu xạ tia X để từ đó phán đoán cấu trúc của ADN. Những dữ liệu thực nghiệm này lúc đó nằm ở King’s College London. Tuy nhiên, năm 1952, Wilkins và trưởng phòng thí nghiệm ở King’s College đã từ chối cho Pauling xem các bức ảnh nhiễu xạ đó.
 
Sau đó, ông lên kế hoạch sang London dự một hội thảo khoa học, dường như để tiếp cận các bức ảnh nhiễu xạ này qua các trao đổi cá nhân, thì rủi thay Ủy ban điều tra về các hoạt động không trung thành với nước Mỹ của nghị viện (House Un-American Activities Committee) đã không cho phép ông đến London dự hội thảo, do trước đó ông đã tham gia các hoạt động phản đối chiến tranh.
Bức ảnh nhiễu xạ tia X số 51 nổi tiếng của Franklin cho biết cấu trúc của ADN

Câu chuyện ở King’s College
 
Trong khi đó, ở King’s College London, câu chuyện về việc đua tranh tìm ra cấu trúc của ADN đang diễn ra rất gay cấn giữa Wilkins và Franklin. Tuy là đồng nghiệp nhưng do không hòa hợp với nhau, xuất phát từ cá tính khác nhau và sự phân công công việc không rõ ràng của John Randall, giám đốc phòng nghiên cứu vật lý - y sinh, nên Wilkins và Franklin đã làm thực nghiệm về nhiễu xạ tia X của ADN độc lập với nhau.
 
Trước đó, từ tháng 5-1950, Wilkins và Raymond Gosling đã làm thực nghiệm về đo nhiễu xạ tia X với ADN và thu được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, sau khi Franklin chuyển đến, Randall lại phân công Franklin phụ trách việc này, đồng thời hướng dẫn Gosling tiếp tục công việc. Như vậy Randall đã chỉ định Franklin thay thế công việc của Wilkins mà không nói cho ông biết. Lý do vì Franklin được coi là chuyên gia duy nhất về nhiễu xạ tia X để nghiên cứu cấu trúc các phân tử sinh học trong nhóm vật lý - sinh học lúc đó.
 
Nhờ có kỹ năng tốt về thực nghiệm và cải thiện được kỹ thuật chuẩn bị mẫu nên Franklin thu được những kết quả rất tốt. Nhưng khi Wilkins hỏi về cách cải thiện kỹ thuật chuẩn bị mẫu, Franklin đã từ chối và tỏ ra mình mới là người giỏi hơn, tạo ra căng thẳng trong quan hệ cá nhân của hai người.
 
Với những kết quả thực nghiệm mới, Franklin phát hiện tùy theo mức độ ngậm nước, ADN tồn tại hai dạng A và B. Khi ướt, ADN ở dạng A, mỏng và dài. Còn khi khô, ADN ở dạng B, mập và ngắn. Do mâu thuẫn cá nhân giữa Wilkins và Franklin khá căng thẳng nên Randall đã phải phân chia lại công việc: Franklin chọn dạng A, dạng có vẻ như giàu dữ liệu hơn, còn Wilkins tập trung vào dạng B, vì trước đó ông đã làm các nghiên cứu về ADN ở dạng này.
 
Wilkins, xuất phát từ các kết quả mình nghiên cứu trước đó, luôn cho rằng ADN có cấu trúc xoắn. Đến cuối năm 1951, nhóm nghiên cứu ở King’s College đã gần như chắc chắn ADN có cấu trúc xoắn. Tuy nhiên, sau khi chụp một ảnh nhiễu xạ bất đối xứng vào tháng 5-1952, Franklin đã nghi ngờ cấu trúc xoắn này và trêu chọc Wilkins bằng cách viết một “cáo phó” về cấu trúc xoắn của ADN. Tuy nhiên, chính Franklin đã thay đổi quan điểm sau khi có các kết quả đo đạc tiếp theo.
Cấu trúc ADN từ các nghiên cứu hiện đại

Câu chuyện ở Cambridge
 
Trong khi đó ở Cambridge, Watson và Crick đang bận rộn với việc xây dựng mô hình về cấu trúc phân tử ADN, phần lớn dựa vào sự mò mẫm và suy luận từ các giả định, dữ liệu và kết quả của nhóm nghiên cứu khác. Đến Cambridge năm 1951 khi mới 23 tuổi, Watson đã gặp Crick, lúc đó 35 tuổi, đang nghiên cứu về cấu trúc của protein. Đây dường như là cuộc gặp mặt định mệnh của họ.
 
Gần như ngay lập tức, cả hai đều chia sẻ nhận định rằng chính cấu trúc của ADN là câu hỏi lớn nhất của ngành sinh học lúc bấy giờ. Họ thường xuyên thảo luận và phản biện, bổ sung cho nhau hầu tìm ra cấu trúc của ADN. Và tất nhiên là tích cực theo dõi các kết quả thực nghiệm và công bố của các nhà khoa học khác.
 
Một trong những mốc quan trọng là năm 1952, trong một lần đến Cambridge, Erwin Chargaff, nhà hóa sinh của Đại học Columbia, đã giải thích cho Watson và Crick về kết quả thực nghiệm của mình rằng dù có tỉ lệ khác nhau trong các ADN khác nhau, nhưng các cặp phân tử nucleotide luôn cặp đôi và có tỉ lệ bằng nhau, đó là: adenine với thymine (A-T) và guanine với cytosine (G-C) (còn gọi là cặp đôi G-X trong phiên âm của nhiều tài liệu tiếng Việt).
 
Ngày 30-1-1953, Watson đến King’s College, mang theo bản thảo của bài báo Pauling gửi đăng, trong đó có mô tả về cấu trúc xoắn ba của ADN. Vì Wilkins, một người bạn của Watson, đi vắng, nên Watson đã đến gặp Franklin và thuyết phục hợp tác trước khi Pauling tìm ra sai sót của mình. Nhưng Franklin không bị thuyết phục, thậm chí nổi giận khi Watson cho rằng bà không biết cách khai thác dữ liệu. Không còn cách nào khác, Watson đành trở lại gặp Wilkins. Thông cảm với bạn, Wilkins đã cho Watson xem tấm ảnh nhiễu xạ tia X (số 51) của Franklin mà không hỏi ý kiến của bà.
 
Khi nhìn thấy tấm ảnh thực nghiệm này, ngay lập tức Watson tìm thấy thứ mình cần như ông kể lại: “Ngay khi nhìn thấy phổ nhiễu xạ, tôi há hốc mồm và tim đập thình thình” (1).
 
Trong khi đó, đến khoảng cuối tháng 2-1953, Franklin, bằng việc phân tích các bức ảnh nhiễu xạ của mình, đã đến rất gần đích về một cấu trúc đúng của ADN. Tuy nhiên, ở King’s College lúc đó Franklin bị phân biệt đối xử rất mạnh, có thể do cá tính của bà hoặc do bà là phụ nữ trong một môi trường học thuật đỉnh cao nhưng không khích lệ nữ giới tham gia.
 
Lúc đó, phụ nữ ở đây không được tham gia một số thảo luận khoa học và không được vào phòng ăn chung. Do đó bà quyết định chuyển đến Đại học Birkbeck. Trước khi đi, bà đã bàn giao lại các tấm ảnh nhiễu xạ của mình cho Wilkins, vì Randall muốn các nghiên cứu về ADN phải ở lại King’s College.
 
Cũng trong tháng 2-1953, Watson và Crick bắt tay vào xây dựng mô hình cấu trúc của ADN. Trên cơ sở các dữ liệu nhiễu xạ tia X của Wilkins và Franklin mà ông đã thấy và tham chiếu ý tưởng của các nhà khoa học khác, cấu trúc của ADN ngày càng rõ dần. Với Watson, những chấm nhiễu xạ tạo thành hình chéo này có nghĩa rằng ADN phải có cấu trúc xoắn kép.
 
Và bằng kiến thức về cấu trúc tinh thể, khi phân tích dữ liệu về tính đối xứng của tinh thể ADN, Crick biết rằng hai chuỗi xoắn đơn của ADN phải chạy theo hai chiều ngược nhau. Kết hợp với kiến thức về sự cặp đôi của các phân tử A-T và G-C trước đó, họ đã xây dựng được mô hình hoàn chỉnh về cấu trúc của ADN và mô tả chính xác cách thức liên kết, góc xoắn của chuỗi xoắn kép này.
Tìm ra cấu trúc xoắn kép của ADN giúp mở cuốn sách bí mật sự sống cho nhân loại - Ảnh: Nature.com

Eureka: Bí mật hé lộ!
 
Ngày 28-2-1953, Crick thông báo trong một quán rượu nhỏ rằng họ đã tìm ra “bí mật của sự sống”, nhưng mô hình về cấu trúc của ADN chỉ thật sự được họ hoàn thiện vào ngày 7-3-1953. Tuy nhiên, trước đó một ngày, bản thảo bài báo của Franklin về cấu trúc của ADN dạng A đã kịp đến tòa soạn Acta Crystallographica, tức là Franklin đã viết trước khi mô hình về cấu trúc ADN của Watson và Crick được dựng lên.
 
Ngày 18-3-1953, khi nhận được bản thảo về bài báo của Watson và Crick, chính là bài báo nổi tiếng đăng trên Nature, Wilkins đã trả lời: “Tôi nghĩ hai cậu đúng là một cặp cáo già, nhưng rất có thể các cậu sẽ có thu hoạch tốt từ vụ này (2)”. Và phán đoán của Wilkins đã đúng, khi Watson và Crick đã được trao giải Nobel năm 1962 cho khám phá này.
 
Câu chuyện về cấu trúc ADN như vậy đã rõ ràng. Vấn đề còn lại là công bố chính thức ra sao. Dưới sự thỏa thuận của các lãnh đạo phòng thí nghiệm và các tác giả, ba bài báo của nhóm Watson và Crick, Wilkins, Franklin được công bố đồng thời trong số tạp chí ra ngày 25-4-1953 của Nature. Theo đó, dường như bài báo của Watson và Crick được bố trí như là bài về lý thuyết, còn bài của Wilkins và Franklin như là các bài có tích cách thực nghiệm minh họa cho bài lý thuyết của Watson và Crick.
 
Trong bài báo của mình, Watson và Crick đã viết rằng: “Chúng tôi đã thấy rằng cách thức cặp đôi mà chúng tôi đề xướng ngay lập tức gợi mở một cơ chế nhân bản trong các vật liệu di truyền (3)”.
Như vậy, cấu trúc chuỗi xoắn kép do Watson và Crick tìm ra đã giải thích được cơ chế truyền thông tin di truyền trong các cơ thể sống. Sự cặp đôi của các phân tử bazơ cho biết cách thức thông tin được copy, còn trình tự các bazơ lại là đặc trưng nhận biết của chuỗi các amino axit trong protein. Kỳ diệu hơn, các phân tử ADN này có thể tách ra thành hai chuỗi xoắn đơn riêng biệt và sau đó nhân bản thành hai ADN giống hệt nhau. Cơ chế truyền tin trong tế bào, tức cơ chế di truyền, đã trở nên rõ ràng.
 
Sự tìm ra cấu trúc xoắn kép của ADN được ví như việc tìm ra định luật II trong cơ học của Newton. Đó thật sự là một cuộc cách mạng trong khoa học. Cuốn sách về bí mật sự sống lần đầu tiên được mở ra cho nhân loại.
 
Để ghi nhận đóng góp của các nhà khoa học, giải Nobel y học năm 1962 đã được trao cho Watson, Crick và Wilkins. Franklin đã mất trước đó bốn năm do bị ung thư nên không được xét trao giải, nhưng đóng góp của bà cho việc khám khá cấu trúc của ADN có lẽ không hề nhỏ hơn ba nhà khoa học đã được nhận giải Nobel năm 1962.
 
ADN ngoại truyện
 
Ngoại truyện thứ nhất là công trình khám phá cấu trúc của ADN - một lĩnh vực thuộc ngành sinh học - lại được tiến hành phần nhiều bởi các nhà vật lý. Điều này không phải ngẫu nhiên vì trước đó cuốn sách Sự sống là gì? của Erwin Schödinger đã tạo cảm hứng, và phần nào dẫn dắt các nhà vật lý tham gia khám phá những bí mật của sự sống, tạo tiền đề cho sự ra đời của một ngành khoa học rất phát triển sau này, đó là ngành vật lý - sinh học (Biophysics).
 
Truyền thống này được tiếp nối mãi về sau, chẳng hạn Walter Gilbert, người đã chuyển từ nghiên cứu vật lý lý thuyết sang sinh học phân tử và đã được trao giải Nobel hóa học năm 1980 cho công trình nghiên cứu về cấu trúc và xác định trình tự ADN của mình.
 
Ngoại truyện thứ hai là vai trò của John Randall, giám đốc trung tâm nghiên cứu vật lý - y sinh nơi Walkins và Franklin làm việc. Ông là người chỉ đạo các nghiên cứu về cấu trúc của ADN. Như vậy, rõ ràng ông là người có tầm nhìn dẫn dắt và có đóng góp to lớn cho các nghiên cứu tìm ra cấu trúc ADN. Nhưng dường như công trạng của ông đã không được ghi nhận đúng mức trong việc này.
 
Ngoại truyện thứ ba có thể được coi như một góc khuất trong cuộc chạy đua khám phá cấu trúc ADN, liên quan đến vai trò của Franklin, vì đóng góp của bà dường như đã không được ghi nhận đúng mức. Trong bài báo của mình, Watson và Crick đã phủ nhận việc tham khảo kết quả thực nghiệm của Wilkins và Franklin trong việc xây dựng mô hình cấu trúc ADN (4).
 
Điều này bị nhiều nhà khoa học cho là không trung thực và khó chấp nhận, và thường xuyên bị nêu ra như một trường hợp cần thảo luận trong các khóa học về đạo đức khoa học. Ngoài ra, việc Wilkins cho Watson xem tấm ảnh nhiễu xạ số 51 của Franklin mà không được phép của bà liệu có phải là vi phạm đạo đức khoa học? Tại sao Wilkins lại làm vậy? Và nếu không có tấm ảnh này, liệu Watson và Crick có tìm ra cấu trúc của ADN?
 
Những câu hỏi này đã làm đau đầu các nhà nghiên cứu trong hàng thập kỷ và sẽ tiếp tục bị mổ xẻ. Nhưng lịch sử không lặp lại và không có chữ nếu, nên mọi câu trả lời được đưa ra chỉ là giả định. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn, cho đến đầu năm 1953, trong cuộc đua rất gay cấn, cả bốn nhóm nghiên cứu đã rất gần đích đến, và vì thế việc khám phá cấu trúc của ADN sớm hay muộn thì cũng là một điều chắc chắn.
 
GIÁP VĂN DƯƠNG
___________
(1) Nguyên văn: The instant I saw the picture my mouth fell open and my pulse began to race - James D. Watson (1968), The Double Helix, trang 167.
(2) Nguyên văn: I think you’re a couple of old rogues, but you may well have something.
(3) Nguyên văn: It has not escaped our notice that the specific pairing we have postulated immediately suggests a possible copying mechanism for the genetic material. Cụm từ “It has not escaped our notice” được coi là một trong những câu nói giảm lớn nhất trong khoa học.
(4) Nguyên văn: We were not aware of the details of the results presented there when we devised our structure, which rests mainly though not entirely on published experimental data and stereochemical arguments.

Nguồn: Tuoi Tre Online (Tuổi Trẻ Cuối Tuần) ngày 21/05/2013 truy cập từ http://tuoitre.vn/Tuoi-tre-cuoi-tuan/Cuoc-song-muon-mau/548916/mo-cuon-sach-bi-mat-su-song.html#ad-image-0.  

Bí ẩn gen di truyền

TTCT - Ngày 25-4-1953, tạp chí Nature nổi tiếng của Anh công bố liền ba bài báo khoa học về cấu trúc của ADN (deoxyribonucleic acid) (1).
 
Sự kiện này là một cuộc cách mạng trong ngành sinh học và y học, và được ví như việc con người bắt đầu mở được cuốn sách về bí mật của sự sống.
Ảnh: reproductive-revolution.com

Để ghi nhận công lao của các nhà khoa học đã khám phá ra cấu trúc của ADN, giải Nobel y học năm 1962 được trao cho các tác giả của công trình này. Đó là: Maurice H.F. Wilkins, James D. Watson và Francis H. C. Crick.
 
Việc tìm ra cấu trúc của ADN được ví như việc tìm ra định luật II về chuyển động của Newton. Kể từ đó, cấu trúc xoắn kép của ADN đóng vai trò trung tâm trong các nghiên cứu của hai ngành sinh học phân tử và y học, không chỉ làm nền tảng cho các nghiên cứu mà còn định hướng cho các cuộc thám hiểm khoa học mới, đặc biệt là trong việc tìm ra các thuốc chữa bệnh mới cho con người.
 
Nếu điểm lại tất cả các thành tựu trong hai ngành khoa học và y học thời gian vừa rồi ta sẽ thấy chỗ nào cũng có bóng dáng của ADN, từ nhân bản vô tính đến liệu pháp gen, đến tế bào gốc, xác định nguồn gốc sinh học... Tất cả có được đều nhờ vào việc khám phá ra cấu trúc của ADN.
 
Về mặt triết học, sự khám phá ra ADN cũng là lần đầu tiên thuyết giản lược (reductionism) lật đổ được thuyết lực sống (vitalism) một cách thuyết phục. Vì thế theo Victor McElheny, sử gia của Viện Công nghệ Massachusetts, ngày 25-4-1953 - tức ngày khám phá ra cấu trúc của ADN - là một ngày lịch sử của ngành sinh học và do đó là một ngày lịch sử của khoa học.
 
Đây cũng là lần đầu tiên luận điểm cho rằng con người là sản phẩm của hoàn cảnh - một luận điểm phổ biến trong thuyết duy vật lịch sử, bị chứng minh là khiếm khuyết. Vì ngoài việc bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh, sự di truyền sinh học là có thật, không chỉ chứng minh được bằng thực nghiệm mà còn được dùng để nhận dạng sinh học, chữa bệnh, thậm chí để truy nguyên tìm hiểu nguồn gốc của nhận thức và bản ngã của con người.
 
Sự khám phá cấu trúc ADN, được coi như cuốn sách về bí mật của sự sống, đã tạo ra một xung lượng mới cho các nhà khoa học từ đủ các chuyên ngành khác như vật lý, sinh học, hóa học, toán học, khoa học máy tính, triết học, tâm lý học, giáo dục học... tin tưởng và dấn thân vào con đường khám phá các bí mật của sự sống, và đặc biệt là khám phá những bí ẩn của chính con người thông qua khoa học.
 
Đến ngày 14-4-2003, tức 50 năm sau khi khám phá cấu trúc của ADN, con người đã giải mã được bộ gen của mình, lập ra một danh sách gồm 3 tỉ ký tự di truyền của bộ gen người, tạo cơ sở cho hàng loạt khám phá và phát triển của y học, dược học. Ngày nay, bất cứ ai cũng có thể đăng ký giải mã bộ gen của mình với giá vài nghìn đôla. Như vậy, về mặt sinh học, con người đã đọc hết được cuốn sách bí mật về sự sống của chính mình. Việc còn lại là hiểu nó như thế nào và sử dụng những kiến thức đó sao cho hiệu quả và nhân bản.
 
Tính từ ngày tìm ra cấu trúc ADN thì đến nay là chẵn 60 năm. Theo quan niệm của phương Đông, đây là vừa tròn một vòng hoa giáp, kết thúc một chu kỳ cũ và mở ra một chu kỳ mới. Vậy chúng ta cùng nhân cái mốc 60 năm này để đọc lại câu chuyện về cuộc khám phá khoa học thú vị này (2).
 
Một câu hỏi ám ảnh
 
Những câu hỏi cơ bản về sự sống đã ám ảnh con người ngay từ khi họ ý thức được sự tồn tại của mình. Sự sống rõ ràng là một điều kỳ diệu, khác hoàn toàn với thế giới vô tri. Nhưng sự sống cũng là một bí ẩn. Vì thế “Đâu là bí mật của sự sống?” là một câu hỏi đầy ám ảnh.
 
Tùy thuộc tôn giáo và văn hóa bản địa, các dân tộc có cách trả lời câu hỏi này, trước hết về bí mật xuất thân của dân tộc mình, rất khác nhau. Chẳng hạn dân tộc Việt cho rằng mình là con rồng cháu tiên, được sinh ra bởi mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân, trong một bọc trăm trứng. Dân tộc Nhật lại cho rằng mình là con cháu của nữ thần Mặt trời... Do đó những truyền thuyết về nguồn gốc dân tộc ít nhiều đều có thể coi như một cách trả lời câu hỏi về nguồn gốc và bí mật sự sống, xét ở quy mô dân tộc. Và ngược lại, chính việc trả lời câu hỏi dân tộc mình được sinh ra như thế nào lại có thể được coi là một trong những nguyên nhân sâu xa nhất tạo nên các đặc trưng văn hóa của các dân tộc này.
 
Ở mức độ cá nhân, câu trả lời về nguồn gốc và bí mật của sự sống phụ thuộc phần nhiều vào đức tin và nhận thức. Người theo đạo Thiên Chúa cho rằng vạn vật là do Thiên Chúa tạo ra, và chính Chúa là người thổi hồn vào các vật vô tri để tạo ra sự sống. Người theo đạo Phật cho rằng sự sống là những vòng luân hồi nối tiếp theo nghiệp quả, vạn vật bình đẳng, bất sinh bất diệt. Còn nhà khoa học thì không hài lòng với những điều mặc định đó mà tìm cách truy tìm những bí mật của sự sống thông qua các bằng chứng thực nghiệm.
 
Nhưng công việc tìm kiếm bí mật sự sống bằng khoa học này quả thật không dễ dàng gì. Đến tận đầu thế kỷ 20, tri thức của con người về sự sống vẫn không hơn tri thức thời cổ đại bao nhiêu. Những bằng chứng khoa học về nguồn gốc và cơ chế di truyền sự sống vẫn vô cùng ít ỏi.
 
Con người dường như chạm phải một bức tường vô hình trong hành trình tìm hiểu chính bản thân mình, đặc biệt là trong việc tìm hiểu một trong các cơ chế hiển nhiên nhất - cơ chế di truyền. Thậm chí đến tận giữa thế kỷ 20, thuyết lực sống (vitalism) - hay còn gọi là thuyết sức sống, bắt nguồn từ thời Aristotle (384-322 trước Công nguyên), cho rằng sự sống không thể giải thích được hoàn toàn bằng vật chất - vẫn còn thịnh hành.
 
Thuyết này còn được sự ủng hộ của các triết gia lớn như Nietzsche, H.Bergson và W.Dilthey để phản đối chủ nghĩa duy vật và thuyết duy tâm của Kant (3). Xét riêng trong ngành sinh học thì thuyết này xét sự sống như một tổng thể và cho rằng không thể hiểu thấu đáo cơ chế của sự sống bằng cách phân tích. Ngược lại, những người theo thuyết giản lược (reductionism) trong sinh học thì lại cho rằng các quá trình cơ bản của sự sống hoàn toàn có thể hiểu được thông qua việc chia nhỏ và phân tích khoa học.
 
Bí ẩn gen di truyền
 
Cơ chế di truyền, nói nôm na là cơ chế sinh sản, từ lâu đã là mối bận tâm lớn của các nhà khoa học và triết học. Trong số các lý thuyết về sinh sản trước khi ngành di truyền hình thành thì thuyết lồng vào nhau cho rằng thành viên của các thế hệ kế tiếp được lồng vào nhau như những vòng tròn móc nối vào nhau, nên mang đặc tính giống nhau, là có vẻ chặt chẽ hơn cả (4). Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của thuyết này là không thể giải thích được sự tiến hóa trong giới sinh vật.
 
Còn nhớ G.J.Mendel (1822-1884) là người đầu tiên đề xuất về một cơ chế di truyền qua thí nghiệm về sự lai giống đậu Hà Lan năm 1865. Tuy nhiên, công trình của ông bị rơi vào quên lãng và chỉ được phát hiện lại bởi ba nhà khoa học độc lập Hugo de Vries, Carl Correns và Erich von Tschermak 35 năm sau đó. Kể từ đây, ngành di truyền học có những bước phát triển mới.
 
Đến những năm 1930, ý niệm về gen di truyền đã hình thành rõ nét và được chấp nhận trong giới sinh học. Nhưng gen là gì vẫn còn là một bí ẩn, vẫn là một khái niệm trừu tượng, được sử dụng làm công cụ tiện dụng cho việc giải thích các kết quả nghiên cứu về di truyền, còn bản chất của nó vẫn là một điều còn bỏ ngỏ.
 
Cho đến những năm đầu 1940, các nhà khoa học tin rằng gen chính là các protein. Nói cách khác, các phân tử protein là vật liệu di truyền. Tuy nhiên, trong bài báo kinh điển của mình công bố năm 1944, nhóm ba nhà khoa học Avery, MacLeod và McCarty (5) đã lần đầu tiên chỉ ra rằng vật liệu di truyền chính là các ADN.
 
Nhưng làm thế nào mà ADN, một loại phân tử vẫn bị coi là trơ, lại trở thành gen di truyền và nắm giữ bí mật của sự sống? Để trả lời được câu hỏi này, cần thiết phải khám phá bằng được cấu trúc của ADN. Đó chính là nhiệm vụ mà các nhà khoa học tự đặt ra cho mình từ nửa cuối thập niên 1940. Và một cuộc đua tìm kiếm cấu trúc của ADN đã bắt đầu, âm thầm nhưng không kém phần quyết liệt.


Giải Nobel y học năm 1962 được trao cho ba nhà khoa học Francis Harry Compton Crick, James Dewey Watson và Maurice Hugh Frederick Wilkins đã “khám phá ra cấu trúc phân tử của các axit nucleic và ý nghĩa của chúng trong việc truyền thông tin trong các sinh vật” (6).

GIÁP VĂN DƯƠNG
 
Kỳ 2: Mở cuốn sách bí mật sự sống
____________
(1): Watson J.D. and Crick F.H.C., A Structure for Deoxyribose Nucleic Acid, Nature 171, 737-738 (1953); Wilkins M.H.F., A.R. Stokes A.R. & Wilson, H.R, Molecular Structure of Deoxypentose Nucleic Acids, Nature 171, 738-740 (1953); Franklin R. and Gosling R.G, Molecular Configuration in Sodium Thymonucleate, Nature 171, 740-741 (1953)
(2): Từ phần này trở đi, bài viết có sử dụng và diễn giải các tư liệu của wikipedia.org, nobelprize.org và exploratorium.edu.
(3): Ted Hondrich, Hành trình cùng triết học, NXB Văn Hóa Thông Tin 2002, tr.1140.
(4): Albert Jacquard, Con người và gen, Nguyễn Ngọc Thuân dịch, NXB Tri Thức, 2010.
(5): J. Exp. Med. 79, 137-159 (1944)
(6): Nguyên văn: The Nobel Prize in Physiology or Medicine 1962 was awarded jointly to Francis Harry Compton Crick, James Dewey Watson and Maurice Hugh Frederick Wilkins ”for their discoveries concerning the molecular structure of nucleic acids and its significance for information transfer in living material”.
 

Nguồn: Tuoi Tre Online (Tuổi Trẻ Cuối Tuần) ngày 12/05/2013 truy cập từ http://tuoitre.vn/Tuoi-tre-cuoi-tuan/Cuoc-song-muon-mau/547474/bi-an-gen-di-truyen.html.

Bạn nghiện Internet tới mức nào?

TTCT - Chứng nghiện Internet (1), một dạng cụ thể của chứng nghiện công nghệ mà một phiên bản dễ thấy nhất là cơn say lướt Facebook, là một trong những vấn đề thời sự ngày càng được nhiều nhà nghiên cứu lên tiếng cảnh báo.
 
Tuy nhiên, nghiện Internet có tương tự các chứng nghiện đã được biết đến như nghiện rượu, nghiện thuốc lá, nghiện ma túy?
Nhiều quốc gia đã thừa nhận hội chứng nghiện Internet là nguy cơ tàn phá sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là giới trẻ - Ảnh: Tự Trung

Hội chứng nghiện Internet được đề xuất lần đầu tiên năm 1995 bởi Ivan Goldber khi ông mô tả chứng nghiện đánh bạc theo các tiêu chuẩn của Sổ tay thống kê và chẩn đoán các bệnh tâm thần (2), phiên bản 4 (DSM-4).
 
Có chăng chứng nghiện Internet?
 
Cùng với sự phát triển của công nghệ băng thông rộng và sự phổ cập của Internet, truyền thông đại chúng đề cập đến chứng nghiện Internet ngày càng nhiều. Tuy nhiên, đó có phải là một chứng nghiện hay không thì đến nay vẫn chưa thống nhất.
 
Năm 2006, Hiệp hội Y khoa Mỹ (American Medical Association) đã từ chối việc khuyến nghị Hiệp hội Tâm thần Mỹ (American Psychiatric Association) đưa chứng nghiện Internet vào Sổ tay thống kê và chẩn đoán các bệnh tâm thần, phiên bản 5 (DSM-5).
 
Cuốn sổ tay này vừa được công bố ngày 22-5-2013. Trong đó, tuy bị từ chối là một bệnh nghiện chính thức, nhưng Hiệp hội Tâm thần Mỹ vẫn đưa chứng nghiện Internet vào phần phụ lục với hàm ý đây là vấn đề đáng quan tâm, cần nghiên cứu tiếp. Tuy nhiên, chứng nghiện Internet vẫn là một chủ đề được giới chuyên gia lưu ý bàn thảo (3).
 
Với một số nước châu Á như Hàn Quốc và Trung Quốc thì chứng nghiện Internet được coi là một hiện tượng thực tế đáng lo ngại, không cần phải bàn cãi, nhất là khi ngày càng có nhiều thanh thiếu niên vì mải mê chơi trò chơi trực tuyến (4) đến mức chết tại chỗ trong quán Internet. Với Hàn Quốc, chứng nghiện Internet thậm chí còn bị xếp thành một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất về sức khỏe cộng đồng (5).
 
Theo thống kê, ngay từ năm 2006, Hàn Quốc đã có 210.000 trẻ em tuổi từ 6-19 bị mắc chứng nghiện Internet và cần điều trị. Trong số đó, 20-24% số trẻ này cần phải được điều trị trong bệnh viện. Ngoài ra, do chơi điện tử nhiều, lên đến 23 giờ/tuần, nên 1,2 triệu học sinh Hàn Quốc cũng có nguy cơ bị nghiện Internet và cần được tư vấn ở cấp độ cơ bản. Đến tháng 6-2007, Hàn Quốc đã huấn luyện 1.043 chuyên gia tư vấn để làm việc trong 190 trung tâm và bệnh viện điều trị chứng nghiện Internet.
 
Tại Trung Quốc, tình hình cũng đáng lo ngại ở mức tương tự. Theo báo cáo, năm 2007 có khoảng 10 triệu thanh thiếu niên Trung Quốc mắc chứng nghiện Internet, ứng với khoảng 13,7% thanh thiếu niên sử dụng Internet.
 
Các nghiên cứu khác cho thấy với đại chúng, tỉ lệ người có dấu hiệu nghiện Internet vào khoảng 6-15%. Với học sinh sinh viên, tỉ lệ này lên đến 13-18,4% (6). Như vậy, có thể ước lượng sơ bộ tỉ lệ người nghiện Internet trung bình là khoảng 10% số người sử dụng.
 
Số người sử dụng Internet ở Việt Nam tính đến tháng 11-2012 lên đến hơn 31 triệu người (7). Tuy chưa có nghiên cứu thống kê nhưng nếu tỉ lệ người có triệu chứng nghiện Internet tính ở mức thấp nhất là 6% thì tỉ lệ người có triệu chứng nghiện Internet lên đến 1,8 triệu người. Một con số đáng lo ngại. Tuy nhiên, ở Việt Nam có thể có tình trạng nhiều người dùng chung một máy tính nên tỉ lệ người nghiện Internet sẽ ít hơn. Để làm rõ tình trạng này cần thiết phải có một điều tra xã hội học nghiêm túc trước khi đưa ra những kết luận chắc chắn.
 
Mô hình bệnh lý
Các hình thức nghiện phổ biến
Chứng nghiện Internet biểu hiện ở rất nhiều hình thức khác nhau. Một trong số các hình thức đó có thể được liệt kê dưới đây:
- Nghiện trò chơi điện tử trực tuyến (game online).
- Nghiện các nội dung khiêu dâm, đồi trụy trên mạng.
- Nghiện đánh bạc, mua sắm trên mạng.
- Nghiện nhắn tin và tán gẫu trên mạng.
- Nghiện lang thang vô định trên mạng.
- Nghiện tìm kiếm và đọc những nội dung không cần thiết.

Để giải thích nguyên nhân gây ra chứng nghiện Internet, cần thiết phải đưa ra một mô hình bệnh lý. Về đại thể, mô hình này có thể chia thành ba loại chính như sau (8):
 
1. Mô hình nhận thức - hành vi
 
Theo mô hình này, việc lạm dụng Internet là do nhận thức lệch lạc dẫn đến hành vi cũng lệch lạc theo, như chơi game online (trò chơi trực tuyến) quá mức, đánh bạc, truy cập các nội dung đồi trụy quá nhiều… tạo ra chứng nghiện Internet. Vì thế, điều trị chứng nghiện Internet trong trường hợp này sử dụng lý thuyết nhận thức - hành vi, theo đó nhấn mạnh việc sử dụng Internet có kiểm soát, và cho rằng chính suy nghĩ, nhận thức sẽ tạo ra cảm xúc, vì thế cần phải xác lập nhận thức đúng trước hết.
 
Việc điều trị chứng nghiện Internet theo cách này có những đặc điểm rất gần với một số quan niệm của nhà Phật như chánh kiến, chánh niệm, chánh tư duy. Vì thế, có thể vận dụng những quan điểm gần gũi này của văn hóa Phật giáo truyền thống để giúp người nghiện Internet điều chỉnh hành vi của mình.
 
2. Lý thuyết bù trừ
 
Theo lý thuyết này, người dùng Internet cảm thấy được bù đắp những khiếm khuyết ở ngoài đời thực, đặc biệt là với giới trẻ. Chẳng hạn, áp lực học hành nặng nề và đặc biệt là hệ thống thi cử, đánh giá tài năng chỉ dựa trên điểm số đã làm giới trẻ mệt mỏi và tìm kiếm sự khẳng định mình trên thế giới ảo. Ngoài đời, một trẻ có thể nhút nhát, ít bạn, hay bị trêu chọc, điểm số kém, nhưng trên thế giới ảo, cậu ta có thể là một game thủ có tiếng và được vị nể.
 
Ngay cả người lớn cũng có xu hướng dùng thế giới ảo để tìm kiếm cảm giác bù đắp những thất bại hoặc trốn tránh các khó khăn thực ngoài đời. Việc kết bạn, giao lưu, khẳng định mình trên mạng cũng dễ dàng hơn so với ngoài đời thực. Vì thế, bên cạnh việc tìm kiếm sự thừa nhận mình trên mạng thì việc trốn tránh cuộc đời thực bằng cách sống trong thế giới ảo cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến chứng nghiện Internet.
 
Theo mô hình này, cách thức điều trị tốt nhất là khuyến khích các hoạt động thực ngoài đời, giao lưu thực, bình tĩnh giải quyết các khó khăn thực, đặc biệt phải cải tiến hệ thống đánh giá năng lực, thay vì chỉ sử dụng một tiêu chuẩn giản đơn như điểm thi hay tiền bạc. Cần hình thành một cách thức đánh giá năng lực cởi mở và toàn diện hơn cho xã hội.
 
3. Mô hình tâm lý thần kinh
 
Theo mô hình này thì chứng nghiện Internet liên quan trực tiếp đến các vấn đề về tâm lý và thần kinh. Cụ thể, động cơ nguyên thủy của con người là tìm kiếm hạnh phúc, khoái cảm và lảng tránh khổ đau. Động cơ nguyên thủy này có thể cùng với các động cơ phối kết khác, như mong muốn khẳng định mình, là một trong các thôi thúc người ta bước vào sử dụng Internet.
 
Khi sử dụng Internet thì hệ thần kinh được kích thích và người dùng có trải nghiệm khoái cảm. Nhưng khi nghiện, khoái cảm này sẽ trơ dần, dẫn đến thôi thúc tái sử dụng ở mức độ cao hơn. Dần dà, điều này gây ra cảm giác “vật vã” khi không được sử dụng Internet, với những biểu hiện cụ thể như: bồn chồn, mất ngủ, cảm xúc bất ổn định, dễ bực bội, cáu kỉnh... Những điều này sẽ tích tụ và chuyển thành các phản ứng tiêu cực của người nghiện Internet như nhận thức sai lệch, dữ tợn, thù nghịch, đổ lỗi...
 
Và để giải tỏa các phản ứng tiêu cực này cũng như hệ lụy của nó mang lại, người ta lại tăng cường sử dụng Internet để trốn tránh, để tìm lại cảm giác thỏa mãn, để xác lập giá trị của mình trong thế giới ảo. Vòng xoáy cứ như vậy tiếp tục làm người nghiện ngày càng khó bứt ra khỏi thế giới mạng.
 
Bạn có nghiện Internet không?
 
Sau khi đã đọc hết những nội dung trên thì đây là câu hỏi mà bạn phải đối diện một cách trung thực: bạn có nghiện Internet không?
 
Nếu có đầy đủ các biểu hiện sau thì bạn có thể bị coi là đã nghiện Internet:
 
1) Lạm dụng: thường gắn kèm với việc mất cảm thức về thời gian, thậm chí quên cả nhu cầu cơ bản như ăn, uống, vệ sinh…
 
2) Biểu hiện “vật vã”, như giận dữ, căng thẳng, thậm chí trầm cảm khi không được sử dụng Internet.
 
3) Mức độ sử dụng tăng, biểu hiện qua tăng thời gian dùng Internet, nhu cầu về máy tính mạnh hơn, cần phần mềm nhiều tính năng hơn.
 
4) Hậu quả tiêu cực như tranh cãi, nói dối, thành tích học tập/làm việc kém, tách rời xã hội, mệt mỏi thường xuyên…
 
Thay lời kết
 
Đến nay tuy chưa có một thống nhất chính xác giữa các nhà nghiên cứu về chứng nghiện Internet, nhưng những hậu quả của việc lạm dụng Internet đến sức khỏe sinh học và tâm thần, năng suất lao động, chất lượng công việc, cuộc sống gia đình, quan hệ xã hội… là có thực. Nhiều quốc gia đã hiển nhiên thừa nhận hội chứng nghiện Internet là một trong những nguy cơ tàn phá sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là với giới trẻ.
 
Vì thế hãy sử dụng Internet một cách thông minh để nâng cao năng suất làm việc và chất lượng cuộc sống, thay vì bị nó nuốt chửng và tàn phá cuộc đời bạn.
 
GIÁP VĂN DƯƠNG
___________
(1): Internet addiction disorder
(2): Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders
(3): Issues for DSM-V: Internet Addiction. Am. J. Psychiatry 165:3, March 2008
(4): Game online
(5): Ahn DH: Korean policy on treatment and rehabilitation for adolescents’ Internet addiction, in 2007 International Symposium on the Counseling and Treatment of Youth Internet Addiction. Seoul, Korea, National Youth Commission, 2007, p 49.
(6): Kimberly S. Young, Cristiano Nabuco de Abreu, Internet Addiction: A Handbook and Guide to Evaluation and Treatment, JohnWiley & Sons, Inc. 2010.
(7):
http://www.thongkeInternet.vn
(8): Kimberly S. Young, Cristiano Nabuco de Abreu, A Handbook and Guide to Evaluation and Treatment, JohnWiley & Sons, Inc. 2011.

Nguồn: Tuoi Tre Online (Tuoi Tre Cuoi Tuan) ngày 02/06/2013 truy cập từ http://tuoitre.vn/Tuoi-tre-cuoi-tuan/Cuoc-song-muon-mau/551581/ban-nghien-internet-toi-muc-nao.html.