Thứ Sáu, 14 tháng 12, 2012

Lịch sử cúp vô địch UEFA

Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu (tiếng Anh: European Cup hoặc UEFA Champions League; tên thường gọi: Cúp C1) là giải bóng đá hàng năm của Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA).

Lịch sử

Năm 1954, Gabrief Hanot - của báo L'Equipe- đã đề xuất một giải thi đấu giữa các đội vô địch bóng đá các quốc gia châu Âu. Tháng 1 năm 1955, báo L'Equipe đã gửi bản dự thảo "European Cup" đến nhiều câu lạc bộ bóng đá. Ngày 2 tháng 4 năm 1955, 16 đại diện các câu lạc bộ đã thảo luận bản dự thảo này và thông qua sau 3 giờ đồng hồ.
Trận đấu đầu tiên đã diễn ra ngày4 tháng 9 năm 1955 tại Lisbon (Bồ Đào Nha) giữa Sporting LisbonFK Partizan (Nam Tư), kết quả hòa 3-3. Và đội vô địch đầu tiên là Real Madrid (giải có 16 đội tham dự).
Từ mùa bóng 1992/1993, giải được đổi tên thành "UEFA Champions League". Và đến mùa bóng 1997/1998, có một sự thayđổi lớn trong điều lệ giải, ngoài các đội vô địch quốc gia, các đội có thứ hạng cao trong mỗi giải vô địch (tùy theo mỗi quốc gia) cũng có quyền tham dự. Mùa bóng năm 2005/2006 và 2006/2007, 3 quốc gia Tây Ban Nha, AnhÝ được quyền cử 4 đội tham gia.

Nhạc hiệu

Bản nhạc nền Cúp C1 Châu Âu do nhà soạn nhạc người Anh Tony Britten soạn theo phong cách của nhà soạn nhạc người ĐứcGeorge Frideric Hadel (1658-1759), được giàn nhạc Royal Philharmonic Orchestra (London - Anh) trình bày. Bản nhạc có mang nhiều âm hưởng của bản Zadok the Priest của Handel.

Chiếc cúp

Cúp cao 74cm, nặng 8kg và đắt giá nhất khoảng 200.000 Franc. Đội đoạt cúp còn được nhận 20 Huy chương vàng và một phiên bản cúp, đồng thời có quyền giữ chiếc cúp thật trong vòng một năm trước khi trao lại cho UEFA "trong tình trạng nguyên xi" (nếu hư hại sẽ bịphạt nặng), một tháng trước trận chung kết lần sau.
Nếu 3 lần liên tiếp đoạt chức vôđịch, hoặc 5 lần khác nhau, đội có quyền sở hữu vĩnh viễn chiếc cúp và lúc này UEFA phải làm một chiếc cúp khác hoàn toàn giống hệt. Tính tới thời điểm hiện tại, có 5 câu lạc bộ có được vinh dự này là: Real Madrid (9 lần vô địch); AC Milan (7 lần); Liverpool FC (5 lần); AFC Ajax (4 lần, trong đó 3 lần liên tiếp); FC Bayern München (4 lần, trong đó 3 lần liên tiếp);
8 ngôi sao trên biểu tượng quảbóng của Cúp C1 (UEFA Champions League) là biểu tượng cho 8 đội bóng từng bảo vệ thành công chức vô địch (Real Madrid, SL Benfica, Inter Milan, Ajax Amsterdam, Bayer Munchen, Liverpool, Nottingham Forest, AC Milan).

Quy định

Các đội tham dự và thể thức thi đấu

Từ khởiđầu tới mùa bóng 1996-1997

Kể từ khi ra đời với tên gọi European Champion Clubs' Cup (tức Cúp C1), giải đấu này chỉ dành cho các độiđoạt chức vô địch quốc gia tại giải vô địch hạng cao nhất của các quốc gia châu Âu là thành viên của UEFA và đội đương kim vô địch của mùa giải trước - đang giữ cúp.
Vì vậy, nếu một đội bóng không bảo vệ được danh hiệu vô địch trong nước nhưng đoạt được cúp C1 thì năm sau tiếp tục được dự giải và quốc gia đó sẽ là nước duy nhất có 2 đội dự Cúp C1. Nếu đội vô địch Cúp C1 đồng thời đoạt "cú đúp" - vô địch cả giải trong nước thì quốc gia đó vẫn chỉ có 1 đội dự cúp này như những nước khác. Trong cả trường hợp đội vô địch Cúp C1 bị xuống hạng ở giải trong nước vẫn được dự giải này trong mùa bóng tiếp theo.
Thể thức duy nhất mà UEFA áp dụng từ năm 1955 tới năm 1991 là phân cặp đấu loại trực tiếp từ vòng đầu tới vòng cuối cùng. Vòng đầu có 32 đội, lần lượt qua 5 lượt tới trận chung kết còn 2đội.
Mùa bóng 1986-1987, vòng 1 Cúp C1 chỉ có 31 đội tham dự do sự cố chính trị làm vắng mặt 1 thành viên. Do đó độiđương kim vô địch là Steaua Bucharest của Rumani được vào thẳng vòng 2.
Ở mùa giải 1991/92, Cúp C1 vẫn mang tên là European Champion Clubs' Cup như trước đây, nhưng UEFA đã thửnghiệm một thể thức thi đấu mới. 8 đội lọt vào tứ kết được chia làm 2 bảng thiđấu vòng tròn một lượt (vẫn gồm 2 lượt trận sân nhà sân khách cho mỗi cặp đấu), chọn ra 2 đội đầu bảng vào thi đấu trận chung kết.
Mùa giải 1992/93, giải bóng đá này chính thức được đổi tên thành UEFA Champions League - giải đấu của các nhà vô địch. Lúc này, vòng tứ kết vẫn gồm 8 đội nhưng lại có thêm vòng bán kết. Trận bán kết diễn ra giữa đội nhất bảng này gặp nhì bảng kia, nhưng chỉ thi đấu một trận duy nhất trên sân của những đội nhất bảng.
Real Madrid là đội bóng giữ kỷ lục lâu bị loại ởCúp C1 nhất. Tính từ khi tham gia năm 1955 tới năm 1960, Real Madrid liên tục vô địch cúp này 5 năm và chưa từng bị loại. Tới mùa bóng 1960-1961, Real cùng FC Barcelona là đội vô địch trong nước cùng đại diện cho Tây Ban Nha dự giải. Do thời đó chưa có quy định hạt giống nên việc bốc thăm ngẫu nhiên khiến Real Madrid và Barcelona gặp nhau ngay vòng đầu. Kết quả Barcelona đã loại Real bằng kết quả hoà 2-2 ở sân Bernabeu và thắng 2-1 ở sân Nou Camp. Đó là lần đầu tiên Real Madrid bị loại ở Cúp C1.

[sửa] Từ mùa bóng 1997-1998

UEFA mở rộng số đội tham dự, cho phép các nước có thành tích cao nhất được cử 2 đại diện tham dự - đội vô địch và đội á quân. Do số đội tăng lên, số đội dự vòng bảng là 16 và do đó có 4 bảng sau 2 vòng đầu. 8 đội đứng đầu 4 bảng lọt vào vòng tứ kết, đấu loại trực tiếp tới chung kết.
Trong những năm tiếp theo, do sức ép từ phía nhóm G-14, các đội bóng mạnh và giàu có ở châu Âu, UEFA mở rộng đối tượng tham dự Champions League hơn, cho phép 3 quốc gia có thành tích cao nhấtđược cử tới 4 đội tham dự, các nước có thành tích thấp hơn có số đội tham dựgiảm dần, để tạo điều kiện cho những đội bóng giàu có có cơ hội đoạt Cúp này ngay cả khi không vô địch trong nước nhiều năm liền.
Các vòng loại cho các đội yếu từnhững nước có hệ số điểm thấp được thu xếp từ mùa hè để bắt đầu vào tháng 9, vòng 1 bắt đầu là vòng đấu bảng với số đội tham gia là 32 đội tại 8 bảng đấu.
Quy định mở rộng đối tượng tham dự này khiến cho giải thực chất không còn đúng với tên gọi "giải đấu của các nhà vô địch" - Champions League nữa.

Quy định hiện nay

- Vòng sơ loại đầu tiên: gồm 22 đội vô địch quốc gia các nước được xếp hạng từ 27 và thấp hơn.
- Vòng sơ loại thứ nhì: gồm 28 đội (11 đội thắng của vòng sơ loại đầu tiên, 11 đội vô địch của các quốc gia xếp từ 16 đến 26 và 6 đội á quân của các quốc gia có các thứ hạng từ 10 - 15).
- Vòng sơ loại thứ ba: gồm 32 đội (14 đội thắng của vòng sơ loại thứ hai, 6đội vô địch của các quốc gia có thứ hạng từ 10-15; 3 đội á quân của các quốc gia có thứ hạng từ 7 - 9; 6 đội hạng 3 của các quốc gia có thứ hạng từ 1-6 và 3đội hạng tư của các quốc gia có thứ hạng từ 1 -3).
- Vòng đấu bảng thứ 1: gồm 32 đội, chia làm 8 bảng (4 đội/bảng): 16 đội thắng vòng sơ loại thứ 3, đội đương kim vô địch, 9 đội vô địch của các quốc gia có thứhạng từ 1- 9, 6 đội á quân của các quốc gia có thứ hạng từ 1-6.
Sau khi thi đấu vòng tròn, hai đội đứng đầu mỗi bảng sẽ được vào vòng sau.
- Vòng đấu bảng thứ 2: 16 đội chia thành 4 bảng. Sau khi thi đấu vòng tròn, hai đội đầu mỗi bảng vào vòng tứ kết.
Kể từ mùa giải 2003-2004, các đội vào vòng đầu bảng thứ 2 sẽ bốc thăm phân cặp đấu loại trực tiếp 2 lượt đi và về.
- Vòng tứ kết: Bốc thăm phân cặp đội đấu loại trực tiếp.
- Bán kết:
- Chung kết:
Có tất cả 239 trận đấu.
- Các đội bị loại khi xếp hạng thứ 3 tại vòng bảng được chuyển sang thi đấu từ vòng 1 europe league.

Thể thức bốc thăm phân cặp

- Vòng đấu bảng : các CLB cùng một liên đoàn không chung bảng.
- Vòng 1/8:(các đội nhì bảng gặp các đội đầu bảng, các đội nhì bảng đá sân nhà trước): các CLB cùng một liên đoàn cũng như từng gặp nhau tại vòng bảng thứkhông chung bảng.
- Vòng tứ kết : Những đội nhì bảng sẽ đấu lượt đi trên sân nhà.Bốc thăm phân cặp đấu lượt đi và về.
- Vòng bán kết: bốc thăm phân cặp đấu lượt đi và về.
- Chung kết: đấu 1 trận duy nhất trên sân trung lập. Nếu hòa đá 2 hiệp phụ.
- Tại vòng 1/8, tứ kết và bán kết nếu sau 2 lượt tổng tỷ số bằng nhau(sốbàn thắng trên sân khách của 2 đội bằng nhau, nếu không đội nào có số bàn thắng trên sân khách nhiều hơn sẽ dành quyền đi tiếp) sẽ đá hiệp phụ cổ điển (không tính bàn thắng vàng hay bạc), nếu vẫn hòa sẽ đá luân lưu xác định đội thắng thua.

Xếp hạng vòng bảng

Đội thắng được 3 điểm, hòa 1điểm, thua 0 điểm. Trong trường hợp có hai hay nhiều đội bằng điểm nhau sau khi vòng đấu bảng kết thúc, việc phân định ngôi thứ sẽ dựa trên các tiêu chuẩn sau:
- Giành được nhiều điểm hơn trong các trận đối đầu trực tiếp.
- Có hiệu số bàn thắng bại cao hơn trong các trận đối đầu trực tiếp.
- Ghi được nhiều bàn thắng trên sân của đối phương hơn trong các trận đối đầu trực tiếp.
- Có hiệu số bàn thắng bại của tất cả các trận đấu trong bảng cao hơn.
- Ghi được nhiều bàn thắng hơn trong tất cả các trận đấu trong bảng.
- Hệ số điểm của quốc gia vào thời điểm đầu mùa bóng (Hệ số này do UEFAthiết lập và xếp hạng).

Các trận chung kết

Năm
Đội vô địch
Tỷ số
Đội hạng nhì
Sân vận động
4 - 3
2 - 0
3 - 2
2 - 0
7 - 3
3 - 2
5 - 3
2 - 1
3 - 1
1 - 0
2 - 1
2 - 1
4 - 1
4 - 1
2 - 1
2 - 0
2 - 0
1 - 0
1 - 1
(4 - 0)
(đá lại)
2 - 0
1 - 0
3 - 1
1 - 0
1 - 0
1 - 0
1 - 0
1 - 0
1 - 0
1 - 1
(4 - 2)
(pen)
1 - 0
0 - 0
(2 - 0)
(pen)
2 - 1
0 - 0
(6 - 5)
(pen)
4 - 0
1 - 0
0 - 0
(5 - 3)
(pen)
1 - 0
1 - 0
4 - 0
1 - 0
1 - 1
(4 - 2)
(pen)
3 - 1
1 - 0
2 - 1
3 - 0
1 - 1
(5 - 4)
(pen)
2 - 1
0 - 0
(3 - 2)
(pen)
3 - 0
3 - 3
(3 - 2)
(pen)
2 - 1
2 - 1
1 - 1
(6 - 5)
(pen)
2 - 0
2 - 0
3 – 1
19 tháng 5, 2012
Tháng 5, 2013

Thống kê

Xếp hạng các quốc gia có số lần vô địch nhiều nhất

Quốc gia
Vô Địch
Á Quân
CLB Vô Địch
CLB Á Quân
13
9
12
14
11
7
6
8
6
2

Xếp hạng theo câu lạc bộ

Đội bóng
Vô địch
Á quân
Năm vô địch
Năm hạng nhì
9
3
7
4
5
2
4
4
4
3
4
2
3
2
3
2
2
5
2
5
2
0
-
2
0
-
1
1
(1967)
(1970)
1
1
(1983)
(1980)
1
1
(1986)
(1989)
1
1
(1993)
(1991)
1
0
(1970)
-
1
0
(1982)
-
1
0
(1988)
-
1
0
(1991)
-
1
0
(1997)
-
0
2
-
0
2
-
0
1
-
(1957)
0
1
-
(1960)
0
1
-
(1966)
0
1
-
(1971)
0
1
-
(1974)
0
1
-
(1975)
0
1
-
(1976)
0
1
-
(1977)
0
1
-
(1978)
0
1
-
(1979)
0
1
-
(1984)
0
1
-
(1992)
0
1
-
(2002)
0
1
-
(2004)
0
1
-
(2006)
0
1
-
(2008)

Các kỷ lục

  • Cầu thủ già nhất ghi bàn: Ryan Giggs của Manchester United , 37 tuổi, ghi bàn ngày 27-4-2011.
  • Trận chung kết có tỷ số cao nhất: Năm 1960 giữa Real Madrid - Eintracht Frankfurt: 7-3
  • Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất: Raúl González - 73 bàn (tính đến ngày 1 tháng 04 năm 2011)
  • Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong 1 mùa : 14 bàn Lionel Messi mùa 2011/2012 (không tính vòng sơ loại)
  • Cầu thủ ghi bàn tại nhiều trận chung kết liên tiếp: Alfredo Di Stéfano (Real Madrid): 5 trận chung kết liên tiếp, từ 1956 - 1960.
  • Câu lạc bộ đoạt nhiều cúp nhất: Real Madrid (9 lần: 1956, 1957, 1958, 1959, 1960, 1966, 1998, 2000, 2002)
  • Câu lạc bộ tham gia nhiều trận chung kết nhất: Real Madrid (12 lần). Nếu chỉ tính từ khi đổi tên thì Milan là số 1 với 6 lần đoạt 3 cúp.
  • Cầu thủ đoạt nhiều cúp C1 nhất: Francisco Gento (Real Madrid) với 6 lần
  • Cầu thủ tham gia nhiều trận chung kết nhất: Francisco Gento (Real Madrid) và Paolo Maldini (AC Milan) cùng 8 lần có mặt trong trận chung kết cúp C1.
  • Bàn thắng nhanh nhất trong trận chung kết: do công của Paolo Maldini (số 3, AC Milan) ghi vào giây thứ 51, trận Liverpool - AC Milan năm 2005 và anh cũng thiết lập luôn kỉ lục cầu thủ lớn tuổi nhất ghi bàn trong 1 trận chung kết.
  • Bàn thắng nhanh nhất giải Champion League: thực hiện giây thứ 10,2 do công của Roy Makaay trong trận Bayern München- Real, lượt về vòng 2, mùa giải 2006-2007.
  • Cầu thủ lớn tuổi nhất tham gia trận chung kết: Dino Zoff (thủ môn Juventus) ra sân năm 1983 khi 41 tuổi 86 ngày; còn tính Champions League thì Paolo Maldini (hậu vệ Milan) ra sân trận chung kết 2007 khi 38 tuổi 331 ngày.
  • Đội bóng thất bại trong nhiều trận chung kết nhất: SL Benfica (Bồ Đào Nha): 5 lần (1963, 1965, 1968, 1988, 1990) và Juventus FC (Italia): 5 lần (1973, 1983, 1997, 1998, 2003)
  • Cầu thủ đầu tiên giành Cúp C1 trong màu áo 2 câu lạc bộ khác nhau: Belodedici (người Rumani): năm 1986 vô địch với Steaua Bucharest và 1991 vô địch với Sao Đỏ Belgrade. Cầu thủ đầu tiên đạt thành tích này với 2 câu lạc bộ trong 2 năm liên tiếp là Marcel Desailly: năm 1993 với Olympique de Marseille và năm 1994 với AC Milan , sau đó là Gerard Piqué : năm 2008 với Manchester United và năm 2009 với FC Barcelona, tiếp đó là Samuel Eto'o : năm 2009 với FC Barcelona và năm 2010 với Inter Milan .
  • Cầu thủ duy nhất đoạt cúp 4 lần với 3 CLB khác nhau: Clarence Seedorf: Ajax Amsterdam (1995), Real Madrid (1998), AC Milan (2003, 2007).
  • Huấn luyện viên giành nhiều cúp nhất: Bob Paisley, dẫn dắt Liverpool trong giai đoạn 1974-1983 với 3 lần được tận hưởng vinh quang kể trên (1977, 1978, 1981).
  • Huấn luyện viên giành cúp 2 lần với 2 CLB khác nhau: Ernst Happel (Feyenoord 1970, SV Hamburg 1983) , Ottmar Hitzfeld (Borussia Dortmund 1997, Bayern Munich 2001) và José Mourinho (F.C. Porto 2004, Inter Milan 2010).

Liên kết ngoài

Các mùa giải UEFA Champions League
x t s
Các giải đấu cấp quốc gia
Các giải trẻ
U21 · U19 · U17
Các giải đấu cấp câu lạc bộ
UEFA Champions League · Cúp C2 · Cúp UEFA · Siêu cúp - Cúp Intertoto
Liên đoàn châu lục
Các giải thưởng

Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về: Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét